Thời gian làm việc: 08:00 - 11:30 và 13:30 - 17:00 từ Thứ Hai đến Thứ Sáu

Tính hiệu lực phán quyết trọng tài trực tuyến tại Việt Nam

Tính hiệu lực phán quyết trọng tài trực tuyến tại Việt Nam
Mục lục

Mô tả:

Bài viết phân tích tổng quan về trọng tài trực tuyến một hình thức giải quyết tranh chấp khác so với phương thức trọng tài truyền thống. Mặc dù mang lại tính tiện lợi, tiết kiệm chi phí và thời gian, trọng tài trực tuyến tại Việt Nam hiện vẫn chưa có khung pháp lý rõ ràng. Luật Trọng tài thương mại 2010 và các văn bản liên quan chưa quy định cụ thể về phán quyết điện tử, chữ ký điện tử hay thủ tục trực tuyến. Điều này đặt ra nhiều vướng mắc về hiệu lực pháp lý và khả năng thi hành của phán quyết trọng tài trực tuyến, đặc biệt trong bối cảnh thương mại điện tử xuyên biên giới ngày càng phát triển. Bài viết cũng thực hiện phân tích, đánh giá về tính hiệu lực của một phán quyết trọng tài trực tuyến.

1. Tổng quan về Trọng tài trực tuyến

Trọng tài trực tuyến cũng như trọng tài truyền thống, là phương thức giải quyết tranh chấp trong đó một bên thứ ba được lựa chọn bởi các bên tranh chấp và có quyền đưa ra quyết định về tranh chấp dựa trên các quy trình giải quyết và quy tắc trọng tài. Trọng tài trực tuyến đã chuyển đổi mô hình trọng tài truyền thống thông qua môi trường không gian mạng. Tất cả các bước trong quy trình giải quyết tranh chấp của hội đồng trọng tài trực tuyến giống với trọng tài truyền thống, chỉ khác là nó dựa trên công nghệ thông tin truyền thông. Bên cạnh đó, điểm nổi bật của trọng tài trực tuyến là sự nhanh gọn và thuận tiện của phương thức này. Trong khi trọng tài truyền thống phải quản lý một lượng lớn hồ sơ, giấy tờ của các bên tranh chấp trong từng vụ việc thì trọng tài trực tuyến chỉ cần quản lý các tệp hồ sơ, giấy tờ điện tử của các vụ việc từ nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến phức tạp.

Hiện nay, tại Việt Nam, trọng tài trực tuyến chỉ mới ở những bước phát triển đầu tiên, còn nhiều khó khăn và còn nhiều vấn đề pháp lý còn chưa rõ ràng, gây khó khăn trong việc áp dụng vào thực tiễn. Bài viết này chủ yếu đề cập đến vấn đề hiệu lực của phán quyết trọng tài trực tuyến trong lĩnh vực thương mại điện tử tại nước ta hiện nay, từ đó đề ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện những vấn đề pháp lý xung quanh vấn đề này. Bài viết sẽ làm rõ tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu, thực trạng giải quyết tranh chấp trực tuyến tại Việt Nam, các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu lực phán quyết trọng tài trực tuyến và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện các vấn đề pháp lý liên quan. Bài viết này có cấu trúc gồm bốn phần. Sau nội dung đặt vấn đề ở phần thứ nhất, phần thứ hai nêu thực trạng giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trực tuyến tại Việt Nam trong lĩnh vực thương mại điện tử. Phần thứ ba nêu một số yếu tố ảnh hưởng tới hiệu lực phán quyết của trọng tài trực tuyến và phần thứ tư đưa ra giải pháp nâng cao hiệu lực phán quyết của trọng tài trực tuyến.

Trọng tài trực tuyến (Online Arbitration) là hình thức giải quyết tranh chấp mà trong đó một trọng tài viên hoặc hội đồng trọng tài sẽ đưa ra quyết định ràng buộc đối với các bên tranh chấp. Quy trình trọng tài trực tuyến thường tương tự như trọng tài truyền thống, nhưng mọi thủ tục đều diễn ra trực tuyến, bao gồm việc nộp đơn khiếu nại, gửi tài liệu chứng cứ và điều trần. Phương thức này giúp giúp giảm thiểu chi phí và thời gian cho các bên vì không cần di chuyển đến địa điểm xét xử. Phán quyết của trọng tài viên có tính ràng buộc và có thể thi hành pháp lý. Quy trình này còn có thể bảo mật hơn, với các nền tảng được thiết kế đặc biệt để lưu trữ thông tin an toàn. Tuy nhiên, một số bên có thể không tin tưởng vào quá trình xét xử trực tuyến và lo ngại về sự khách quan của phán quyết. Ngoài ra, trọng tài trực tuyến đòi hỏi một nền tảng công nghệ đủ mạnh để lưu trữ và bảo mật thông tin tranh chấp, đảm bảo các bên được tiếp cận công bằng. Quy trình ODR thường bắt đầu từ việc đăng ký thông tin tranh chấp, lựa chọn phương thức giải quyết, tiến hành các phiên trao đổi và kết thúc bằng thỏa thuận hoặc phán quyết.

Tính hiệu lực phán quyết trọng tài trực tuyến tại Việt Nam
Tính hiệu lực phán quyết trọng tài trực tuyến tại Việt Nam

2. Khung pháp lý điều chỉnh giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trực tuyến tại Việt Nam

Khung pháp lý hiện hành tại Việt Nam điều chỉnh hoạt động giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, bao gồm cả trọng tài trực tuyến, hiện chưa được thiết kế một cách đầy đủ và rõ ràng để phản ánh những đặc thù của hình thức giải quyết tranh chấp trên môi trường số. Trọng tâm của hệ thống pháp luật hiện nay là Luật Trọng tài thương mại năm 2010, văn bản pháp lý chủ đạo điều chỉnh quy trình, nguyên tắc và hiệu lực của hoạt động trọng tài. Liên quan đến trọng tài thương mại truyền thống, Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định về “thẩm quyền của Trọng tài thương mại, các hình thức trọng tài, tổ chức trọng tài, Trọng tài viên; trình tự, thủ tục trọng tài; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên trong tố tụng trọng tài; thẩm quyền của Tòa án đối với hoạt động trọng tài; tổ chức và hoạt động của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, thi hành phán quyết trọng tài” (Điều 1 Luật Trọng tài thương mại năm 2010). Tuy nhiên, luật này không có quy định riêng biệt hoặc trực tiếp điều chỉnh trọng tài trực tuyến, cũng như chưa đề cập đến các yếu tố công nghệ đặc thù như chữ ký điện tử, hồ sơ điện tử hay phiên họp xét xử trực tuyến. Trong khi đó, Luật Giao dịch điện tử năm 2023 có hiệu lực từ ngày 1/7/2024 lại quy định về giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu, chữ ký điện tử và giao dịch điện tử trong nhiều lĩnh vực, bao gồm cả tố tụng và trọng tài. Tuy nhiên, hiện tại giữa Luật Trọng tài thương mại và Luật Giao dịch điện tử chưa có sự liên thông hoặc hướng dẫn áp dụng cụ thể, dẫn đến khó khăn trong việc vận dụng vào các tranh chấp được giải quyết hoàn toàn bằng phương thức điện tử. Bên cạnh đó, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 với các quy định về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài cũng không đề cập rõ đến vấn đề hình thức của phán quyết điện tử, giá trị chứng cứ của văn bản điện tử hay cách thức xử lý các tranh chấp phát sinh từ môi trường mạng. Trong các phương thức giải quyết tranh chấp trực tuyến, hiện nay chỉ có phương thức hòa giải thương mại trực tuyến được quy định tại Nghị định số 22/2017/NĐ-CP về hòa giải thương mại. Một nguồn quan trọng của pháp luật Việt Nam hiện nay là án lệ cũng chưa có một án lệ nào đề cập đến trọng tài trực tuyến. Cụ thể trong tổng số 39 án lệ đang có hiệu lực, được công bố trên trang tin điện tử về án lệ, không có án lệ nào có nội dung liên quan đến trọng tài trực tuyến. Sự thiếu hụt trong điều chỉnh của pháp luật đang tạo ra những lúng túng trong áp dụng giải quyết tranh chấp trực tuyến vào giải quyết tranh chấp thương mại điện tử có xu hướng đang ngày càng gia tăng tại Việt Nam. Như vậy, khung pháp lý hiện hành tại Việt Nam về trọng tài chưa hoàn thiện để có thể điều chỉnh toàn diện và đầy đủ hoạt động trọng tài trực tuyến, từ đó đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc bổ sung, sửa đổi hoặc ban hành văn bản pháp lý hướng dẫn chuyên biệt để đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

3. Hình thức phán quyết của trọng tài trực tuyến

Một trong những tiêu chuẩn và thông lệ toàn cầu trong trọng tài thương mại quốc tế là phán quyết trọng tài phải được lập thành văn bản và có chữ ký hợp lệ của hội đồng trọng tài. Điều IV.1.a của Công ước New York năm 1958 về công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài quy định rằng bên yêu cầu công nhận và/hoặc thi hành phán quyết phải xuất trình “bản chính phán quyết có xác nhận hợp lệ hoặc bản sao có chứng thực hợp lệ”. Khác với pháp luật của nhiều quốc gia và các quy tắc tố tụng trọng tài quốc tế, pháp luật Việt Nam hiện chưa có quy định cụ thể về hình thức của phán quyết trọng tài. Tuy nhiên, có thể hiểu rằng pháp luật Việt Nam mặc nhiên thừa nhận hình thức văn bản của phán quyết thông qua quy định tại Điều 44 Luật Trọng tài thương mại 2010. Cụ thể, khoản 1 yêu cầu “phán quyết trọng tài phải có chữ ký của các trọng tài viên hoặc trọng tài viên duy nhất”, và khoản 2 đề cập đến trường hợp một trọng tài viên không ký vào phán quyết. Cách diễn đạt này cho thấy việc ký tên – vốn chỉ thực hiện được trên tài liệu bằng văn bản – là một yếu tố cấu thành bắt buộc, từ đó gián tiếp khẳng định yêu cầu về hình thức văn bản của phán quyết trọng tài.

Trong bối cảnh trọng tài trực tuyến ngày càng phát triển, thách thức đặt ra là cách hiểu và công nhận hiệu lực của phán quyết điện tử. Trên thực tế, có thể xuất hiện hai loại hình phán quyết:

(i) Phán quyết truyền thống được lập bằng văn bản giấy, có chữ ký tay của trọng tài viên, sau đó được số hoá (scan) để gửi cho các bên;

(ii) Phán quyết điện tử – được soạn thảo và ký bằng chữ ký điện tử, hoàn toàn không có bản giấy gốc.

Từ đây nảy sinh hai câu hỏi pháp lý là: Một phán quyết điện tử, với chữ ký điện tử hợp lệ, liệu có được xem là “bản gốc” theo quy định tại Điều IV Công ước New York và pháp luật Việt Nam? Nếu in bản điện tử này ra giấy, thì bản in đó có còn được xem là bản gốc hay không? Trong khi pháp luật nhiều quốc gia đã thừa nhận tính hợp lệ của chữ ký điện tử trong các thủ tục trọng tài, thì pháp luật Việt Nam lại chưa có quy định rõ ràng về việc có thể sử dụng chữ ký điện tử thay cho chữ ký tay trong phán quyết trọng tài. Khoảng trống pháp lý này gây ra không ít khó khăn trong việc áp dụng trọng tài trực tuyến, đặc biệt liên quan đến hiệu lực pháp lý của phán quyết và hình thức công nhận/chứng thực phán quyết đó. Vì vậy, để bảo đảm tính minh bạch, hiệu lực và khả năng thi hành của phán quyết trọng tài trong môi trường trực tuyến, pháp luật Việt Nam cần có quy định cụ thể về hình thức của phán quyết, cũng như tính hợp lệ của chữ ký điện tử. Việc hoàn thiện khung pháp lý này là cần thiết nhằm tránh những cách hiểu tùy tiện, đảm bảo sự thống nhất trong thực tiễn áp dụng và thúc đẩy phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài hiện đại, hiệu quả.

4. Hiệu lực của phán quyết của trọng tài trực tuyến

Về tính chất phán quyết trọng tài là kết quả của quá trình tố tụng và trọng tài trực tuyến không phải là một ngoại lệ. Những phán quyết này phải đảm bảo có giá trị chung thẩm và ràng buộc. Tại một số quốc gia, có những phán quyết của trọng tài trực tuyến không có giá trị ràng buộc. Ví dụ, tại châu Âu, theo quy tắc trọng tài trực tuyến ADR về quản lý các tranh chấp liên quan đến tên miền thông qua thủ tục tố tụng trực tuyến, quyết định của Hội đồng trọng tài không được xem là phán quyết chung thẩm và bắt buộc các bên phải chấp nhận và thực thi vì nó không cấm người khiếu nại hay chủ sở hữu tên miền gửi khiếu nại đến Tòa án có thẩm quyền để giải quyết độc lập trước khi quá trình xét xử bắt đầu hoặc sau khi phán quyết được đưa ra. Tuy nhiên tại Việt Nam, phán quyết của trọng tài trực tuyến được xem xét giống như một phán quyết của trọng tài truyền thống trong lĩnh vực thương mại nên phán quyết này là phán quyết có giá trị chung thẩm và bắt buộc hai bên phải thi hành (Khoản 5 Điều 61 Luật Trọng tài thương mại năm 2010)

Bên cạnh tính chất ràng buộc và giá trị chung thẩm của một phán quyết trực tuyến thì việc thực thi phán quyết của trọng tài trực tuyến phải phù hợp với những quy định tại Công ước New York 1958. Phán quyết của trọng tài trực tuyến có thể là phán quyết trong nước hoặc phán quyết có yếu tố nước ngoài. Thương mại điện tử phát triển không chỉ làm gia tăng các giao dịch mua bán online trong nước mà còn thúc đẩy hoạt động mua bán trực tuyến xuyên quốc gia. Khi tranh chấp xảy ra giữa các chủ thể không cùng thuộc một phạm vi lãnh thổ, việc giải quyết tranh chấp truyền thống sẽ có nhiều bất cập, vì vậy lựa chọn một hình thức giải quyết tranh chấp trực tuyến, ví dụ như trọng tài trực tuyến được xem là một phương án hợp lý. Tuy nhiên câu hỏi được đặt ra ở đây là nếu phán quyết trực tuyến đó được đưa ra bởi trọng tài nước ngoài thì hiệu lực thi hành phán quyết này sẽ như thế nào. Nếu phán quyết trực tuyến được đưa ra trong phạm vi một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ thì việc thực thi sẽ được xác định theo pháp luật và các thủ tục hiện hành do Tòa án của quốc gia hoặc vùng lãnh thổ đó ban hành và áp dụng có công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài trực tuyến hay không. Trong trường hợp tranh chấp trực tuyến có yếu tố nước ngoài thì việc công nhận và cho thi hành phán quyết trực tuyến phải tuân thủ theo các quy định của Công ước New York 1958. Đối với phán quyết của trọng tài truyền thống, liên quan đến hiệu lực về không gian, được chia ra gồm phán quyết của trọng tài trong nước và phán quyết của trọng tài. Luật Trọng tài thương mại năm 2010 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã có quy định cụ thể về trọng tài nước ngoài cũng như việc xem xét và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài. Cụ thể, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định các trường hợp tòa án xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam (Khoản 1 Điều 424) như sau: 

(1) Trường hợp thứ nhất, phán quyết trọng tài mà nước đó và nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cùng là thành viên của điều ước quốc tế về công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài.” Trong quan hệ quốc tế về vấn đề này, năm 1995 Việt Nam đã gia nhập Công ước New York (1958) về công nhận và cho thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài (Quyết định số 453/QĐ-CTN ngày 28 tháng 7 năm 1995 của Chủ tịch nước về việc tham gia Công ước New York 1958). Trong trường hợp này, địa điểm nơi trọng tài tuyên phán quyết được xem là căn cứ quan trọng để xác định thẩm quyền của Tòa án Việt Nam trong việc xem xét, công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài. Cụ thể, nếu phán quyết trọng tài được ban hành tại một quốc gia là thành viên của điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập chẳng hạn như Công ước New York năm 1958 về công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài thì Tòa án Việt Nam có cơ sở pháp lý để xem xét công nhận và cho thi hành phán quyết đó tại Việt Nam. Đây là trường hợp phổ biến và tương đối thuận lợi về mặt pháp lý, do được điều chỉnh trực tiếp bởi các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

(2) Trong trường hợp thứ hai, khi phán quyết trọng tài được ban hành tại một quốc gia không phải là thành viên của điều ước quốc tế liên quan mà Việt Nam tham gia, thì việc công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài vẫn có thể được Tòa án Việt Nam xem xét, nhưng trên cơ sở nguyên tắc “có đi có lại”. Nguyên tắc này được hiểu là nếu quốc gia nơi tuyên phán quyết có thực hiện việc công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài của Việt Nam trong thực tế hoặc có cơ chế pháp lý tương tự, thì Việt Nam cũng có thể tiến hành theo hướng tương tự. Tuy nhiên, trong thực tiễn, việc áp dụng nguyên tắc này thường phức tạp hơn và đòi hỏi đánh giá cụ thể về mối quan hệ pháp lý và chính sách đối ngoại giữa hai quốc gia liên quan.

 Như vậy, nếu một phán quyết của trọng tài trực tuyến nước ngoài đưa ra không thỏa mãn các điều kiện trên thì Tòa án Việt Nam sẽ đương nhiên từ chối xem xét công nhận và cho thi hành tài Việt Nam. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 không giải thích khái niệm phán quyết của trọng tài nước ngoài mà viện dẫn đến quy định của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 (Khoản 3 Điều 424 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015). Theo đó, phán quyết của trọng tài nước ngoài là phán quyết do trọng tài nước ngoài tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc ở trong lãnh thổ Việt Nam để giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận lựa chọn (Khoản 12 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại năm 2010). Như vậy, pháp luật Việt Nam xác định phán quyết trọng tài “nước ngoài” dựa vào quốc tịch của trọng tài ra phán quyết, cụ thể nếu như là phán quyết của trọng tài nước ngoài thì dù được tuyên trong lãnh thổ hay ngoài lãnh thổ Việt Nam đều được xác định là phán quyết trọng tài “nước ngoài”. Nói cách khác, phán quyết trọng tài thuộc đối tượng công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bao gồm: (i) phán quyết của trọng tài nước ngoài tuyên ngoài lãnh thổ Việt Nam; và (ii) phán quyết của trọng tài nước ngoài tuyên trong lãnh thổ Việt Nam. Như vậy, có thể thấy về yếu tố hiệu lực không gian của phán quyết của trọng tài truyền thống được quy định khá chi tiết và rõ ràng. Xét trong phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trực tuyến, phần lớn quá trình giải quyết vụ việc diễn ra trên không gian mạng. Không gian mạng là một loại không gian đặc biệt không có biên giới hay ranh giới cụ thể, có tính linh hoạt cao. Vì vậy, khi một phán quyết được đưa ra sẽ được xem xét địa điểm được tuyên là ở đâu? Lúc này, liệu không gian mạng có được xem là một loại địa điểm đặc biệt hay không hay hiệu lực của phán quyết trực tuyến sẽ được xem xét tương tự như một phán quyết của trọng tài truyền thống.

.
Lên đầu trang

Đăng tài liệu

TIÊU ĐỀ BÀI ĐĂNG
NỘI DUNG BÀI ĐĂNG
tải tệp lên (chỉ pdf)
Maximum file size: 512 MB