Thời gian làm việc: 08:00 - 11:30 và 13:30 - 17:00 từ Thứ Hai đến Thứ Sáu

Quy định pháp luật và thực tiễn về thực thi phán quyết Trọng tài

Quy định pháp luật và thực tiễn về thực thi phán quyết Trọng tài
Mục lục

Bài viết trình bày khái niệm, đặc điểm và quy trình thi hành phán quyết trọng tài theo Luật Trọng tài thương mại 2010, đồng thời phân tích các bất cập trong thực tiễn thi hành tại Việt Nam. Bài viết cũng chỉ ra các hạn chế về quy định hủy phán quyết trọng tài như căn cứ chưa rõ ràng, thiếu chế tài với bên yêu cầu sai và đặc biệt là không có cơ chế giám sát đối với quyết định hủy của Tòa án.

1. Khái niệm về thực thi phán quyết trọng tài

Phán quyết trọng tài là quyết định của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài. Theo đó, phán quyết trọng tài là chung thẩm, có hiệu lực đối với các bên kể từ ngày ban hành, trừ trường hợp bị hủy hoặc bị từ chối thi hành.

Phán quyết trọng tài có các đặc điểm sau:

+ Thứ nhất, phán quyết trọng tài là chung thẩm, có hiệu lực kể từ ngày ban hành và có giá trị bắt buộc với các bên. Theo quy định tại điều 61 Luật trọng tài thương mại 2010, phán quyết trọng tài có giá trị thi hành ngay và không thể được giải quyết lại theo các thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hay tái thẩm như các tranh chấp giải quyết tại Tòa án. Phán quyết trọng tài có giá trị pháp lý bắt buộc với các bên bởi thẩm quyền của trọng tài là do quyền lực các bên tranh chấp thỏa thuận thống nhất trao cho.

+ Thứ hai, phán quyết trọng tài là kết quả của tố tụng trọng tài và là cơ sở chấm dứt tố tụng trọng tài. Sau khi phán quyết trọng tài được tuyên thì Hội đồng trọng tài hoàn thành việc giải quyết tranh chấp, Hội đồng trọng tài không thể thay đổi nội dung quyết định của họ trong phán quyết ngoài việc sửa lỗi kỹ thuật và khắc phục sai sót trong tố tụng trọng tài.

+ Thứ ba, phán quyết trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung tranh chấp được nêu trong đơn kiện. Về nguyên tắc, khi ra phán quyết trọng tài, Hội đồng trọng tài phải giải quyết đầy đủ, đúng các yêu cầu của các bên. Nếu Hội đồng trọng tài bỏ sót một hoặc một số yêu cầu của các bên trong phán quyết thì các bên có thể yêu cầu Hội đồng trọng tài ra phán quyết bổ sung.

2. Quyền yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài

Theo quy định của Luật Trọng tài thương mại 2010, trong trường hợp hết thời hạn thi hành phán quyết trọng tài mà bên phải thi hành không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ theo nội dung phán quyết và cũng không có đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài gửi đến Tòa án có thẩm quyền theo đúng quy định của pháp luật, thì bên được thi hành phán quyết trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự (THADS) có thẩm quyền tiến hành các thủ tục cưỡng chế thi hành theo quy định pháp luật về thi hành án dân sự. Điều này nhằm đảm bảo hiệu lực thực tế và tính cưỡng chế của phán quyết trọng tài, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên thắng kiện.

Đối với các phán quyết do Hội đồng trọng tài vụ việc ban hành, pháp luật quy định thêm một bước thủ tục là bên được thi hành phán quyết chỉ được nộp đơn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành phán quyết trọng tài sau khi đã hoàn tất thủ tục đăng ký phán quyết tại Tòa án có thẩm quyền. Mặc dù việc đăng ký phán quyết trọng tài tại Tòa án không phải là điều kiện bắt buộc trong mọi trường hợp, nhưng việc thực hiện thủ tục này được khuyến nghị trong thực tiễn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thi hành, nhất là đối với những phán quyết trọng tài vụ việc, để tăng cường tính thuyết phục và hợp pháp của phán quyết khi được chuyển giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền thi hành.

Về thẩm quyền thi hành, cơ quan THADS có thẩm quyền tiếp nhận và giải quyết yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài là Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh hoặc thành phố trực thuộc Trung ương, nơi Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết. Đây là quy định thống nhất nhằm xác định rõ ràng cơ quan có trách nhiệm xử lý việc thi hành, bảo đảm phù hợp với tính chất phức tạp và giá trị thường lớn của các vụ việc giải quyết bằng trọng tài thương mại, đồng thời tạo thuận lợi cho các bên trong việc xác định đầu mối thực hiện yêu cầu thi hành án.

Quy định pháp luật và thực tiễn về thực thi phán quyết Trọng tài
Quy định pháp luật và thực tiễn về thực thi phán quyết Trọng tài

3. Các trường hợp hủy phán quyết trọng tài

Nếu phán quyết trọng tài thuộc cái trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại 2010 thì sẽ bị hủy, cụ thể như sau:

  • Không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu;
  • Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật Trọng tài thương mại 2010
  • Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; trường hợp phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì nội dung đó bị huỷ;
  • Chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài;
  • Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

4. Một số vấn đề trong quy định về thực thi phán quyết trọng tài ở Việt Nam

 Thực tiễn thực thi pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam còn một số bất cập, ảnh hưởng tới hiệu quả thực thi phán quyết trọng tài như sau:

+ Thứ nhất, thủ tục yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài: thực tế áp dụng quy định “hết thời hạn thi hành phán quyết trọng tài mà bên phải thi hành phán quyết không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu hủy phán quyết trọng tài … thì có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài” tại Điều 66 và quy định “Cơ quan THADS có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài là cơ quan THADS cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi Hội đồng Trọng tài ra phán quyết” tại Điều 8 Luật Trọng tài thương mại 2010 phát sinh một số bất cập như sau:

  • Để xác định phán quyết “không có yêu cầu hủy” mỗi địa phương có cách thực hiện khác nhau. Ở một số nơi, khi người được thi hành án nộp đơn yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài, cơ quan thi hành án yêu cầu họ phải cung cấp giấy xác nhận của Tòa án về việc có hoặc không có đơn yêu cầu hủy phán quyết. Tuy nhiên, hiện nay chưa có quy định hay quy trình cụ thể nào để Tòa án cấp loại giấy xác nhận này, dẫn đến việc phụ thuộc hoàn toàn vào thực tiễn từng Tòa án và gây khó khăn cho đương sự. Ngược lại, tại một số địa phương khác, cơ quan thi hành án dân sự và Tòa án có cơ chế phối hợp chặt chẽ: cơ quan thi hành án sẽ chủ động gửi công văn đến Tòa án nơi ra phán quyết trọng tài để xác minh. Nếu Tòa án xác nhận không có yêu cầu hủy hoặc đã có quyết định không hủy thì việc thi hành án sẽ được tiến hành. Nếu có yêu cầu hủy đang được xem xét, đơn yêu cầu thi hành sẽ bị trả lại để chờ kết quả. Cách làm có sự liên thông này giúp bảo vệ quyền lợi của các bên một cách hiệu quả và minh bạch hơn.
  • Thực tế cho thấy các trung tâm trọng tài thương mại chủ yếu đặt tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, nên phần lớn phán quyết trọng tài cũng được ban hành tại đây. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp lại có trụ sở và tài sản ở các địa phương khác, dẫn đến khó khăn trong việc thi hành phán quyết khi thẩm quyền thuộc về cơ quan thi hành án nơi Hội đồng trọng tài ra phán quyết. Điều này đặc biệt bất tiện khi cần áp dụng biện pháp cưỡng chế hoặc bảo đảm thi hành án. Do đó, cần có sự phối hợp hiệu quả giữa cơ quan thi hành án tại nơi ban hành phán quyết và nơi doanh nghiệp có tài sản để đảm bảo việc thi hành được kịp thời, hiệu quả.

+ Thứ hai, quy định về hủy phán quyết trọng tài

Khi phán quyết trọng tài bị hủy bởi tòa án thì không thể thực thi được. Ở một số quốc gia, phán quyết trọng tài vẫn được thi hành cho đến khi có lệnh mới của Tòa án về việc dừng phán quyết trọng tài đó. Tuy nhiên ở Việt Nam, yêu cầu hủy phán quyết trọng tài là một trong những rào cản để thực thi phán quyết sau khi phán quyết đó đã được Hội đồng trọng tài ban hành. Nhận thấy, hủy phán quyết trọng tài là cần thiết (là cơ chế giám sát cho việc giải quyết tranh chấp của trọng tài) nhưng quy định hủy phán quyết trong pháp luật trọng tài thương mại ở Việt Nam còn một số bất cập, ảnh hưởng đến việc thực thi phán quyết trọng tài đó là:

Các căn cứ để hủy phán quyết trọng tài theo Điều 68 Luật Trọng tài thương mại 2010 còn chưa rõ ràng, dẫn đến việc áp dụng không thống nhất trong thực tiễn. Cụ thể, khái niệm “vi phạm nghiêm trọng” về thành phần Hội đồng trọng tài hoặc thủ tục tố tụng dù đã được Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP hướng dẫn, nhưng vẫn bị hiểu và vận dụng khác nhau giữa các Tòa án. Bên cạnh đó, việc xác định thẩm quyền của trọng tài trong các tranh chấp mà chỉ một bên có hoạt động thương mại hoặc liên quan đến bất động sản cũng gây nhiều tranh cãi. Luật hiện hành và các nghị quyết của Tòa án tối cao chưa làm rõ liệu các tranh chấp về bất động sản có thể được giải quyết bằng trọng tài hay không, dẫn đến nhiều quan điểm khác nhau và thực trạng hủy phán quyết trọng tài do “không thuộc thẩm quyền” vẫn thiếu sự thống nhất.

Còn về căn cứ “chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo”, Bộ luật tố tụng dân sự 2015 đã có quy định đầy đủ hơn Luật trọng tài thương mại 2010 rất nhiều về cái vấn đề chứng cứ thu thập chứng cứ cũng như vấn đề đánh giá chứng cứ, nguồn chứng cứ, … tuy nhiên không có căn cứ để áp dụng tương tự, toàn bộ các quy định về chứng cứ trong pháp luật tố tụng dân sự trong tố tụng trọng tài. Về căn cứ “phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”, quy định này thiếu rõ ràng nên việc áp dụng một cách tùy tiện là không thể tránh khỏi. Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP đã có hướng dẫn cụ thể về căn cứ này: “Khi xem xét yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, Tòa án phải xác định được phán quyết trọng tài có vi phạm một hoặc nhiều nguyên tắc cơ bản của pháp luật và nguyên tắc đó có liên quan đến việc giải quyết tranh chấp của Trọng tài”, nhưng trên thực tế việc tòa căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 68 để hủy phán quyết trọng tài mà không nêu rõ phán quyết sai chỗ nào, vi phạm nội dung cụ thể ra sao là không thuyết phục và đó là tình trạng vẫn rất phổ biến.

Hiện nay, quyết định hủy phán quyết trọng tài của Tòa án không chịu sự giám sát thông qua thủ tục phúc thẩm hay giám đốc thẩm, dẫn tới thực trạng các quyết định này hoàn toàn không bị kiểm tra lại về tính đúng đắn hoặc khách quan. Đây là điểm phù hợp với thông lệ quốc tế, vốn đề cao tính chung thẩm và tự nguyện của trọng tài, tuy nhiên trong điều kiện thực tiễn Việt Nam – nơi mà quá trình xét xử đôi khi còn thiếu sự đồng bộ, thống nhất – thì việc thiếu cơ chế giám sát có thể dẫn đến những hậu quả tiêu cực, làm giảm hiệu lực và niềm tin vào cơ chế trọng tài. Ngoài ra, quy định hiện hành của Luật Trọng tài thương mại 2010 về nghĩa vụ chứng minh trong các yêu cầu hủy phán quyết trọng tài tuy có phân định rõ: đối với các căn cứ theo điểm a, b, c, d khoản 2 Điều 68 thì bên yêu cầu phải chứng minh, còn đối với điểm đ thì Tòa án phải chủ động xác minh. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật lại chưa có các quy định chế tài cụ thể nhằm xử lý các hành vi yêu cầu sai, yêu cầu không có căn cứ hoặc cố tình cung cấp thông tin sai lệch, như buộc bên yêu cầu phải bồi thường thiệt hại cho bên kia. Việc thiếu cơ chế chế tài như vậy khiến cho quy định về nghĩa vụ chứng minh kém hiệu quả và có thể bị lợi dụng để trì hoãn, cản trở việc thi hành phán quyết trọng tài, làm ảnh hưởng đến hiệu quả và uy tín của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.

Tin liên quan
.
Lên đầu trang

Đăng tài liệu

TIÊU ĐỀ BÀI ĐĂNG
NỘI DUNG BÀI ĐĂNG
tải tệp lên (chỉ pdf)
Maximum file size: 512 MB