Bài viết tập trung phân tích về tính độc lập của thỏa thuận trọng tài so với hợp đồng chính, một nguyên tắc nền tảng trong pháp luật trọng tài hiện đại. Bài viết còn giải thích tại sao điều khoản trọng tài cần được coi là tồn tại độc lập ngay cả trong những trường hợp hợp đồng chính bị vô hiệu hoặc không tồn tại. Đồng thời, bài viết cũng đặt ra vấn đề thỏa thuận trọng tài có phải là một hợp đồng dân sự và chứng minh tính chất pháp lý cũng như giá trị ràng buộc của nó và rút ra được ý nghĩa của sự độc lập của thỏa thuận Trọng tài.
1. Tính độc lập của thỏa thuận trọng tài so với hợp đồng có thoả thuận trọng tài
Học thuyết về tính độc lập của điều khoản trọng tài bắt nguồn vào những năm đầu thế kỷ XX, trong đó một vụ việc tiêu biểu đánh dấu sự công nhận dành cho học thuyết này là vụ Harbour v Kansa xảy ra vào năm 1940, trước cả khi Đạo luật Trọng tài của Anh (Arbitration Act 1996) ra đời. Trong vụ việc này, Toà phúc thẩm Anh đã công nhận rằng thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực cho dù hợp đồng là bất hợp pháp ngay từ đầu. Giải thích cho điều này, Tòa cho rằng khi không thể đạt được mục đích của hợp đồng, thì hợp đồng sẽ bị vô hiệu và từ đó giải thoát các bên khỏi nghĩa vụ hợp đồng, tuy nhiên điều khoản trọng tài lại không được coi là một mục đích của hợp đồng, vậy nên hiệu lực của thoả thuận trọng tài đó sẽ không bị ảnh hưởng. Từ sau đó, học thuyết này đã được pháp điển hoá, trở thành một điều luật trong Đạo luật Trọng tài năm 1996 của Anh, và được ghi nhận rộng rãi trên thế giới.
Khái niệm tính độc lập của điều khoản trọng tài (hay sự tự chủ của điều khoản trọng tài ở một số hệ thống luật khác) có nghĩa là điều khoản trọng tài trong một hợp đồng sẽ được coi là tách biệt so với hợp đồng chính có chứa điều khoản trọng tài đó, và do đó, vẫn tồn tại khi hợp đồng bị chấm dứt. Sẽ thật vô nghĩa nếu một hành vi vi phạm hợp đồng (hoặc đang trong quá trình tranh chấp giữa các bên về việc vi phạm hợp đồng) hay một khiếu nại cho rằng hợp đồng vô hiệu có thể đồng thời hủy bỏ thỏa thuận trọng tài; bởi đây mới là những khi các bên cần đến thỏa thuận trọng tài nhất. Tính độc lập của thỏa thuận trọng tài là để đảm bảo rằng nếu một bên cho rằng đã có một vi phạm cơ bản hợp đồng thì hợp đồng cũng sẽ không bị hủy bỏ toàn bộ mà nó vẫn tồn tại với mục đích đánh giá các yêu cầu khởi kiện phát sinh từ vi phạm, và điều khoản trọng tài vẫn tồn tại để quyết định hình thức giải quyết tranh chấp. Một phương pháp khác để phân tích quan điểm này là thực tế vẫn tồn tại hai hợp đồng riêng biệt: hợp đồng chính – gồm những nghĩa vụ thương mại của các bên, và hợp đồng phụ – gồm những nghĩa vụ giải quyết bất cứ tranh chấp nào phát sinh từ mối quan hệ này bằng trọng tài. Hợp đồng phụ này có thể không bao giờ cần thực hiện; nhưng nếu cần, hợp đồng này sẽ tạo nên cơ sở để chỉ định một hội đồng trọng tài và giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng chính.
Học thuyết tính độc lập của thỏa thuận trọng tài cũng được áp dụng trong các quy tắc của trung tâm trọng tài cũng như các quy tắc quốc tế như UNCITRAL (Điều 16(1) Luật Mẫu), LCIA (Điều 23(2) Quy tắc) và được công nhận tại Tòa Tối cao Pháp (vụ Gosset), Tòa Tối cao Mỹ (vụ Prima Paint) và các tòa án Trung Quốc. Ngày càng có nhiều quốc gia trên thế giới nêu rõ quan điểm của mình về tính độc lập của điều khoản trọng tài trong luật trọng tài của mình. Số lượng các quốc gia mà khái niệm này chưa được chấp nhận đang dần giảm đi. Xét về mối liên hệ trực tiếp giữa tính độc lập của điều khoản trọng tài và quyền (khả năng) của một hội đồng trọng tài trong việc tự quyết định thẩm quyền của chính mình, một số bộ luật hoặc quy tắc còn quy định rằng điều khoản trọng tài vẫn sẽ tồn tại ngay cả khi hợp đồng chính vô hiệu. Tuy nhiên, điều này còn phải phụ thuộc vào lý do tại sao hợp đồng vô hiệu và liệu xem hợp đồng chính này có bị vô hiệu ngay từ đầu hay không. Trên thực tiễn, việc áp dụng học thuyết này vẫn còn nhiều khác biệt trong trường hợp khi hợp đồng chính bị tranh cãi là chưa bao giờ tồn tại cả. Đạo luật Trọng tài 1996 tại Anh quy định một thỏa thuận trọng tài trong một thỏa thuận khác “sẽ không bị coi là vô hiệu, không tồn tại hoặc không thực hiện được nếu thỏa thuận kia… không tồn tại’’. Gần đây, Tòa án Trung Quốc cũng đã chấp nhận rằng: “Việc hợp đồng chính không được ký kết (không tồn tại) hoặc không có hiệu lực sau khi đã được ký kết (vô hiệu), sẽ không ảnh hưởng đến hiệu lực của điều khoản trọng tài được các bên thỏa thuận do điều khoản trọng tài hoàn toàn độc lập so với hợp đồng chính”, rất tương đồng với thực tiễn quốc tế.
Tính độc lập của Trọng tài thể hiện thông qua việc ngay cả khi hợp đồng bị thay đổi, hủy bỏ, hết hiệu lực thì thỏa thuận trọng tài vẫn có giá trị dù thỏa thuận trọng tài được thể hiện dưới hình thức một điều khoản nằm trong hợp đồng chính hay dưới hình thức văn bản riêng đi kèm hợp đồng chính thì thỏa thuận trọng tài thực chất chính là một hợp đồng nhỏ có nội dung khác biệt và giá trị độc lập với hợp đồng chính. Ngoài ra, thỏa thuận trọng tài xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp, bởi vậy nó mang tính tố tụng và hiệu lực của thỏa thuận trọng tài không phụ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng.

2. Tại sao điều khoản trọng tài lại độc lập với hợp đồng?
Luật Việt Nam ghi nhận tính độc lập của thỏa thuận trọng tài tại Điều 19, Luật TTTM 2010. Ngoài ra, Điều 6.4 Quy tắc trọng tài ICC năm 1955, và Điều 21.2 Quy tắc trọng tài UNCITRAL năm 1976 cũng ghi nhận tính độc lập của thỏa thuận trọng tài giống với quy định của Việt Nam. Việc ghi nhận tính độc lập của thỏa thuận trọng tài là quan trọng vì:
+ Thứ nhất, vì hầu hết các thoả thuận trọng tài đều được tích hợp thành một điều khoản trong hợp đồng chính, nên điều khoản trọng chính là cơ sở duy nhất để các bên có thể giải quyết tranh chấp tại trọng tài.
+ Thứ hai, vì hầu hết tranh chấp đều xảy ra sau khi chấm dứt hợp đồng, nên nếu số phận của điều khoản trọng tài gắn liền với hiệu lực hợp đồng, thì phần lớn các thoả thuận trọng tài sẽ bị vô hiệu, và các tranh chấp sẽ không được giải quyết.
Từ hai điều trên, để đảm bảo quyền lợi của các bên, và đảm bảo rằng thoả thuận trọng tài thật sự có ý nghĩa, thì tính độc lập của điều khoản trọng tài trong hợp đồng chính là vô cùng cần thiết.
3. Thoả thuận trọng tài có phải là một hợp đồng dân sự không?
Theo Điều 116 Bộ luật Dân sự 2015: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.” Theo đó có thể thấy thỏa thuận trọng tài không thể là một hành vi pháp lý đơn phương được bởi “thỏa thuận” đòi hỏi phải có ít nhất hai chủ thể tham gia. Vậy thoả thuận trọng tài có phải là một hợp đồng dân sự không?
+ Thứ nhất, thỏa thuận trọng tài là một thỏa thuận của hai hay nhiều bên về việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp.
+ Thứ hai, trong quan hệ trọng tài, khi các bên đã thỏa thuận chọn trọng tài thì các bên phải tuân thủ thỏa thuận đó, một bên không thể yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp nếu bên kia phản đối.
+ Thứ ba, thỏa thuận trọng tài làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ thỏa thuận. Ở đây có sự ràng buộc pháp lý nên có thể coi là tồn tại quan hệ nghĩa vụ dân sự giữa các bên.
Ngoài ra, về mặt bản chất, thỏa thuận không chỉ ghi nhận sự hợp ý của các bên trong tranh chấp mà còn là một hợp đồng dịch vụ (hợp đồng dịch vụ giải quyết tranh chấp). Theo đó cơ quan trọng tài sẽ cung cấp dịch vụ giải quyết tranh chấp cho các bên đương sự. Khác với hợp đồng dịch vụ thông thường, tính đồng thuận của các bên trong hợp đồng dịch vụ giải quyết tranh chấp với trọng tài là người cung cấp dịch vụ. Cơ quan trọng tài không thể tự mình đứng ra thụ lý vụ tranh chấp của các bên vì thẩm quyền tài phán của trọng tài chỉ xuất hiện khi và chỉ khi các bên cậy nhờ đến mình để giải quyết tranh chấp. Việc cơ quan trọng tài thụ lý và giải quyết tranh chấp cho các bên có nghĩa rằng cơ quan này đã đồng ý cung cấp cho các bên trong trận chấp một loại dịch vụ đặc biệt, đó là dịch vụ giải quyết tranh chấp. Cụ thể như sau: Trước hết, thỏa thuận trọng tài làm rõ cơ quan trọng tài nào sẽ được các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp. Sau đó chỉ ra nguyện vọng của các bên về những vấn đề khác liên quan đến tố tụng trọng tài như: luật áp dụng để giải quyết nội dung vụ tranh chấp, luật áp dụng cho quy trình tố tụng trọng tài, ngôn ngữ, địa điểm, số lượng trọng tài viên trong hội đồng trọng tài. Tùy theo loại hình trọng tài mà cách thức cung cấp dịch vụ và kéo theo đó là các khoản chi phí mà các bên phải bỏ ra sẽ rất khác nhau. Như vậy, có thể coi thỏa thuận trọng tài là một dạng hợp đồng dân sự giữa các bên.
4. Ý nghĩa sự độc lập thỏa thuận trọng tài trong mối quan hệ hợp đồng
Thứ nhất, việc pháp luật trọng tài thừa nhận nguyên tắc hiệu lực độc lập của thỏa thuận trọng tài là hoàn toàn hợp lý và cần thiết. Quy định này thể hiện sự tôn trọng tối đa đối với quyền tự do thỏa thuận của các bên, cụ thể là quyền tự do lựa chọn cơ chế giải quyết tranh chấp. Thỏa thuận trọng tài, dù đứng độc lập hay nằm trong hợp đồng chính, vẫn được xem là sự thể hiện ý chí tự nguyện của các bên, một điều cốt lõi trong các quan hệ dân sự – thương mại hiện đại.
Thứ hai, khác với Tòa án, cơ quan tài phán có thẩm quyền mặc định theo quy định pháp luật, trọng tài chỉ được trao thẩm quyền khi các bên có thỏa thuận trọng tài hợp lệ từ trước. Chính vì vậy, việc thừa nhận tính độc lập của thỏa thuận trọng tài so với hợp đồng chính mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong thực tiễn giải quyết tranh chấp. Điều này đặc biệt phát huy vai trò trong những trường hợp hợp đồng chính bị tuyên vô hiệu, bởi nguyên nhân làm vô hiệu hợp đồng không nhất thiết đồng thời dẫn đến vô hiệu thỏa thuận trọng tài. Việc duy trì hiệu lực riêng biệt của thỏa thuận trọng tài giúp đảm bảo sự ổn định trong cơ chế giải quyết tranh chấp và bảo vệ tối đa ý chí ban đầu của các bên về lựa chọn phương thức tài phán.