Thời gian làm việc: 08:00 - 11:30 và 13:30 - 17:00 từ Thứ Hai đến Thứ Sáu

Khởi kiện Tòa án khi vụ việc đã có thỏa thuận trọng tài

Khởi kiện Tòa án khi vụ việc đã có thỏa thuận trọng tài
Mục lục

Bài viết khái quát các hình thức thỏa thuận trọng tài theo Luật Trọng tài thương mại 2010. Nội dung cũng phân tích các điều kiện để thỏa thuận có hiệu lực, các trường hợp vô hiệu hoặc không thể thực hiện được. Đồng thời qua đó phân tích vấn đề về việc khởi kiện Tòa án khi đã có thỏa thuận trọng tài hoặc khi thỏa thuận trọng tài hết hiệu lực. 

1. Các hình thức thỏa thuận trọng tài

Các hình thức thỏa thuận trọng tài được quy định trong pháp luật Việt Nam như sau: Thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng; Thỏa thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Ngoài ra, các hình thức thỏa thuận sau đây cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản như thỏa thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật; Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên; Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên; Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác; Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thỏa thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận”. Như vậy, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định rất linh hoạt trong việc xác định hình thức thỏa thuận trọng tài. Cụ thể:

– Thứ nhất, thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng. Các nhà làm luật sử dụng cụm từ “có thể” mang tính tự nguyện lựa chọn xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng trong thực tiễn đều được thừa nhận là hình thức hợp lý trong thỏa thuận trọng tài để giải quyết những tranh chấp trong kinh doanh thương mại sẽ, đã hoặc đang xảy ra. Đây là quy định khoa học và phù hợp với thực tiễn thỏa thuận trọng tài để giải quyết tranh chấp của các chủ thể kinh doanh thương mại trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Mặt khác, xét về thỏa thuận trọng tài, trong quy định này, các nhà làm luật không quy định nội dung chi tiết về thỏa thuận trọng tài. Tức là ở cả 02 hình thức, điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng đều thiếu vắng nội dung chi tiết về thỏa thuận trọng tài. So sánh quy định pháp luật của Việt Nam với các nước trên thế giới đều có điểm chung về nội dung thỏa thuận trọng tài trong các hình thức thỏa thuận như phân tích trên đây. Nghĩa là, hầu hết pháp luật các nước đều chỉ quy định điều khoản trọng tài phải thể hiện thỏa thuận đưa tranh chấp ra trọng tài để giải quyết. Ví dụ, Điều 7 Luật Mẫu UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế (Luật Mẫu); Điều 6 Luật Trọng tài của Anh năm 1996; Điều 1442 Luật Trọng tài của Pháp; Điều 1029 Luật Trọng tài của Đức quy định thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi tranh chấp phát sinh. Ngoài ra, luật pháp các nước không quy định chi tiết nội dung cụ thể của thỏa thuận trọng tài mà do các bên tự quyết định, miễn là phải thỏa mãn yêu cầu là một “thỏa thuận” theo luật pháp về hợp đồng của nước có liên quan và phù hợp với yêu cầu của pháp luật nước đó. Từ đó cho thấy, Việt Nam cần thiết phải hướng dẫn, quy định chi tiết nội dung cụ thể trong thỏa thuận trọng tài. Thực tiễn pháp lý cho thấy, Nghị định số 63/2011/NĐ-CP ngày 28/7/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 (Nghị định số 63/2011/NĐ-CP) chưa đáp ứng được tính thống nhất chung của nội dung thỏa thuận phải đáp ứng yêu cầu thống nhất “thỏa thuận” của Bộ luật Dân sự năm 2015 hay là phải tuân thủ riêng bởi một sự hướng dẫn nào khác của cơ quan có thẩm quyền như thông tư của Bộ trưởng để áp dụng thống nhất các nội dung trong bản thỏa thuận trọng tài. Tính thiếu thống nhất này là một biểu hiện của sự chưa hoàn thiện pháp luật liên quan đến nội dung chi tiết về thỏa thuận trọng tài. Nghĩa là, thực tiễn thời gian qua, việc áp dụng hình thức thỏa thuận trọng tài theo điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng gặp phải một số khó khăn, bất cập. Do đó, Nghị định số 63/2011/NĐ-CP cần bổ sung nội dung này để hoàn thiện hơn về mặt pháp lý, đồng thời, phù hợp với nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

– Thứ hai, thỏa thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Đây là quy phạm bắt buộc phải áp dụng trong thực tiễn, dù thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng thì các bên trong giải quyết tranh chấp không được làm khác quy định này. Để xây dựng quy định này, các nhà làm luật đã nghiên cứu, đối chiếu, học tập kinh nghiệm xây dựng pháp luật của một số nước trên thế giới về hình thức thỏa thuận trọng tài bằng văn bản. Phần lớn luật trọng tài của các nước quy định thỏa thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Ví dụ, Điều 89 Luật Trọng tài của Anh năm 1996, Điều 1031 Luật Trọng tài của Đức quy định thỏa thuận trọng tài với người tiêu dùng phải được làm thành văn bản thỏa thuận trọng tài. Xét về phương diện thực tiễn, quy định này hoàn toàn phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay. Giả sử, trong Điều lệ Công ty cổ phần A có điều khoản quy định, các tranh chấp phát sinh giữa các cổ đông sáng lập của công ty với nhau hoặc với công ty sẽ được đưa ra Hiệp hội trọng tài B giải quyết. Trong trường hợp này, khi phát sinh tranh chấp, thành viên Công ty với tư cách là một bên tranh chấp có thể đưa ra Hiệp hội trọng tài B để giải quyết và coi điều khoản trong Điều lệ Công ty cổ phần A là thỏa thuận trọng tài bằng văn bản.

Ngoài ra, một số hình thức thỏa thuận khác cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản. Khoản 2 Điều 16 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đã liệt kê 05 hình thức thỏa thuận được coi là xác lập dưới dạng văn bản gồm: (i) thỏa thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật; (ii) thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên; (iii) thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên; (iv) trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác; (v) qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thỏa thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận. Pháp luật của một số nước như Anh, Đức và Pháp cũng thống nhất thỏa thuận trọng tài phải lập thành văn bản, ngoài ra, thỏa thuận có thể là một quy định sẵn trong hợp đồng, hoặc một thỏa thuận riêng biệt ngoài hợp đồng chính hoặc là tài liệu, telex, thư điện tử. Theo pháp luật về trọng tài thương mại, Việt Nam cho phép thỏa thuận trọng tài có thể được lập theo hình thức khác miễn là các hình thức thỏa thuận đó được áp dụng hợp lệ trong thực tiễn và dưới dạng là văn bản.

2. Điều kiện để giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài

– Về chủ thể

Thỏa thuận trọng tài chỉ có hiệu lực khi được xác lập bởi các bên có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và người xác lập phải có thẩm quyền:

  • Người có năng lực hành vi dân sự là người từ đủ 18 tuổi trở lên và không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Người đại diện cho pháp nhân xác lập thỏa thuận trọng tài phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
  • Người xác lập có thẩm quyền phải là người đại diện theo pháp luật hoặc người được ủy quyền hợp pháp trong phạm vi được ủy quyền. Bên cạnh đó, các bên phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện khi xác lập thỏa thuận trọng tài. Nếu một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thì thỏa thuận trọng tài đó vô hiệu.

-Thẩm quyền trọng tài: Thỏa thuận trọng tài chỉ có hiệu lực khi tranh chấp mà các bên thỏa thuận nằm trong thẩm quyền giải quyết bằng thủ tục trọng tài thương mại. Và trọng tài thương mại chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp sau:

  • Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại;
  • Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; hoặc
  • Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài

-Hình thức thỏa thuận trọng tài: Thỏa thuận trọng tài chỉ có hiệu lực khi đáp ứng được điều kiện về mặt hình thức như sau: Thể hiện dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc thỏa thuận riêng và được xác lập dưới dạng văn bản bao gồm:

  • Thông qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác hoặc trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên;
  • Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên;
  • Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác; hoặc
  • Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thỏa thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận.
Khởi kiện Tòa án khi vụ việc đã có thỏa thuận trọng tài
Khởi kiện Tòa án khi vụ việc đã có thỏa thuận trọng tài

3. Đã thỏa thuận giải quyết tại trọng tài thương mại, khi có tranh chấp có được khởi kiện tại tòa án?

Trong trường hợp hai bên có tranh chấp thương mại đã có thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng mà khi có tranh chấp xảy ra, một bên khởi kiện tại tòa án thì tòa án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài đó vô hiệu hoặc không thể thực hiện được. Hội đồng trọng tài có thẩm quyền xem xét thỏa thuận trọng tài vô hiệu hay thỏa thuận trọng tài không thực hiện được thay vì được quyết định trực tiếp bởi tòa án. Trường hợp Hội đồng trọng tài ra quyết định đình chỉ việc giải quyết tranh chấp theo quy định pháp luật tố tụng trọng tài, các bên có thể khởi kiện ra tòa án để giải quyết tranh chấp. Do đó, Công ty bà H. chỉ có thể khởi kiện tại tòa án nếu chứng minh được thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng giữa Công ty của bà và công ty đối tác thuộc một trong các trường hợp vô hiệu hoặc không thể thực hiện được.

Các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu theo quy định của Luật TTTM được quy định cụ thể như sau:

  • Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài theo quy định.
  • Người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Về nguyên tắc thỏa thuận trọng tài do người không có thẩm quyền xác lập thì thỏa thuận trọng tài đó vô hiệu, tuy nhiên trong trường hợp thỏa thuận trọng tài dù được người không có thẩm quyền xác lập nhưng trong quá trình xác lập, thực hiện thỏa thuận trọng tài hoặc trong tố tụng trọng tài mà người có thẩm quyền xác lập thỏa thuận trọng tài đã chấp nhận hoặc đã biết mà không phản đối sự xác lập không có thẩm quyền đó thì thỏa thuận trọng tài vẫn sẽ không vô hiệu.
  • Người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật Dân sự.
  • Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại của pháp luật.
  • Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài đó là vô hiệu.
  • Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.

Các trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được theo quy định của pháp luật như sau:

  • Trung tâm trọng tài nơi các bên thỏa thuận giải quyết tranh chấp đã chấm dứt hoạt động mà không có tổ chức kế thừa và các bên không có thỏa thuận thay thế trung tâm trọng tài khác;
  •  Trọng tài viên trọng tài vụ việc mà các bên thỏa thuận lựa chọn từ chối tham gia giải quyết hoặc Trung tâm trọng tài từ chối việc chỉ định Trọng tài viên và các bên không có thỏa thuận thay thế;
  • Trọng tài viên trọng tài vụ việc mà các bên đã có thoả thuận lựa chọn giải quyết tranh chấp không thể tham gia giải quyết tranh chấp thương mại vì sự kiện bất khả kháng hay các trở ngại khách quan khác; hoặc Trung tâm trọng tài, tòa án không thể tìm được Trọng tài viên đáp ứng yêu cầu của các bên và các bên không có thỏa thuận thay thế;
  • Các bên có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài nhưng lại thỏa thuận áp dụng Quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài khác với Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài đã thỏa thuận; đồng thời, điều lệ của Trung tâm trọng tài do các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp không cho phép áp dụng Quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài khác và các bên không thỏa thuận được về việc lựa chọn Quy tắc tố tụng trọng tài thay thế.

Từ những viện dẫn trên đây, có thể kết luận rằng, các bên chỉ có thể khởi kiện ra tòa thay vì kiện ra trọng tài như đã thoả thuận tại hợp đồng khi chứng minh được thỏa thuận trọng tài thuộc trường hợp không thể thực hiện được hoặc vô hiệu.

4. Có được khởi kiện tại Tòa án khi các bên chỉ thoả thuận trọng tài mà thời hiệu khởi kiện trọng tài đã hết?

Thời hiệu khởi kiện trọng tài khi các bên tranh chấp lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được quy định cụ thể tại Điều 33 Luật Trọng tài Thương mại Việt Nam 2010. Theo đó, thời hiệu khởi kiện theo thủ tục trọng tài là 02 năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, trừ trường mà pháp luật chuyên ngành có quy định khác.

Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được. Như vậy, khi hai bên đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì Tòa án sẽ từ chối thụ lý đơn khởi kiện trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài là vô hiệu hay thỏa thuận trọng tài không thực hiện được.

Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng có điều khoản về thỏa thuận trọng tài được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hoá, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn quy định tại Điều 17 Luật TTTM nhưng khi phát sinh tranh chấp, người tiêu dùng không đồng ý lựa chọn Trọng tài giải quyết tranh chấp. Như vậy, đối chiếu với các quy định trên, trường hợp hết thời hiệu khởi kiện trọng tài không thuộc trường hợp loại trừ để Tòa án thụ lý giải quyết tranh chấp nếu các bên đã có thoả thuận trọng tài.

Tin liên quan
.
Lên đầu trang

Đăng tài liệu

TIÊU ĐỀ BÀI ĐĂNG
NỘI DUNG BÀI ĐĂNG
tải tệp lên (chỉ pdf)
Maximum file size: 512 MB