Bài viết trình bày căn cứ xác định thẩm quyền của trọng tài thương mại theo Luật Trọng tài thương mại 2010, làm rõ nguyên tắc “thẩm quyền của thẩm quyền”, phạm vi tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài và cách xử lý khi xảy ra xung đột thẩm quyền giữa Trọng tài và Tòa án. Nội dung cũng so sánh với pháp luật quốc tế nhằm làm rõ xu hướng mở rộng thẩm quyền của trọng tài hiện nay.
1. Căn cứ xác định thẩm quyền trọng tài
Các học lý về trọng tài cũng như thực tiễn trọng tài thường đưa ra khái niệm “thẩm quyền của thẩm quyền”. Đây cũng là một vấn đề quan trọng có liên quan tới thẩm quyền của trọng tài. Vấn đề “thẩm quyền của thẩm quyền” được hiểu là khi có một đơn phản đối về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài đối với một tranh chấp (vào thời điểm bắt đầu trọng tài, trong quá trình trọng tài) thì “ai” sẽ có thẩm quyền giải quyết? Đại đa số pháp luật trọng tài các nước cũng như các quy tắc tố tụng trọng tài quốc tế đều ghi nhận thẩm quyền của chính các Hội đồng trọng tài trong việc xem xét nó có thẩm quyền giải quyết tranh chấp hay không. Quyết định về thẩm quyền sẽ được Hội đồng trọng tài đưa vào quyết định tạm thời hoặc quyết định cuối cùng.
2. Thẩm quyền của trọng tài Việt Nam
Thẩm quyền của trọng tài Việt Nam được quy định cụ thể tại Luật trọng tài thương mại năm 2010 như sau:
Theo như Điều 5 khoản 1 của Luật trọng tài thương mại 2010: “Tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thoả thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp.” Như vậy, để một tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài thương mại, điều kiện tiên quyết là giữa các bên phải tồn tại một thỏa thuận trọng tài. Điều này thể hiện rõ nguyên tắc tự nguyện và tôn trọng ý chí của các bên: trọng tài chỉ có thẩm quyền khi được các bên lựa chọn, không có sự can thiệp hay ép buộc nào từ bên thứ ba. Đáng chú ý, pháp luật hiện hành cho phép các bên thỏa thuận về trọng tài trước hoặc sau khi phát sinh tranh chấp, tạo ra sự linh hoạt cao trong việc lựa chọn phương thức giải quyết. Miễn là thỏa thuận trọng tài được lập đúng quy định và không rơi vào các trường hợp vô hiệu, thì cơ chế trọng tài sẽ được áp dụng để giải quyết tranh chấp một cách hợp pháp và hiệu quả.
“Điều 2. Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của Trọng tài
- Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
- Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại.
- Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài.”
Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trong tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không thực hiện được.
Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đã khắc phục những hạn chế trước đây của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 bằng cách mở rộng phạm vi thẩm quyền của trọng tài. Thay vì chỉ giới hạn trong các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại, luật mới cho phép trọng tài giải quyết cả những tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, kể cả khi các bên không trực tiếp thực hiện hoạt động thương mại, miễn là tranh chấp đó được pháp luật cho phép giải quyết bằng trọng tài. Sự mở rộng này là hoàn toàn hợp lý, không chỉ đáp ứng yêu cầu thực tiễn mà còn bảo đảm tính tương thích với các văn bản pháp luật hiện hành như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Luật Thương mại, Luật Đầu tư và nhiều luật chuyên ngành khác. Theo quy định tại khoản 2 và 3 Điều 2 Luật Trọng tài thương mại 2010, mọi tổ chức, cá nhân đều có thể thỏa thuận lựa chọn trọng tài làm phương thức giải quyết tranh chấp, không bắt buộc phải là thương nhân hay chủ thể có hoạt động thương mại. Có thể nói, đây là một trong những điểm mới nổi bật của Luật Trọng tài thương mại 2010, góp phần tăng tính linh hoạt trong lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho cả các Trung tâm trọng tài và các bên có mong muốn sử dụng cơ chế trọng tài.

3. Căn cứ xác định phạm vi giải quyết tranh chấp của trọng tài.
Phạm vi thẩm quyền trọng tài trong pháp luật trọng tài của Hồng Kông và quy tắc trọng tài UNCITRAL quy định trọng tài chỉ giải quyết tranh chấp khi có phát sinh từ hợp đồng tức là những tranh chấp ngoài hợp đồng thì trọng tài sẽ không được phép giải quyết cụ thể tại khoản 1 điều 1 Quy tắc trọng tài UNCITRAL và Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Hồng Kông (HKIAC) 1985 cũng chỉ áp dụng giải quyết các tranh chấp từ hợp đồng: “Nếu các bên trong một hợp đồng đã thoả thuận bằng văn bản rằng tranh chấp có liên quan tới hợp đồng đó sẽ được giải quyết bởi trọng tài theo Quy tắc trọng tài UNCITRAL thì tranh chấp đó sẽ được giải quyết phù hợp với Quy tắc trọng tài này…”.
Trong khi đó, đại đa số pháp luật các nước cũng như pháp luật và tập quán trọng tài quốc tế đều cho phép giải quyết bằng trọng tài các tranh chấp dù có hợp đồng hay không. Luật Trọng tài Anh, Đức, Ca-na-đa, Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore, Luật Mẫu UNCITRAL, Quy tắc trọng tài ICC, LCIA, SIAC, JCAA v.v. đều cho phép trọng tài giải quyết các tranh chấp cho dù có hợp đồng hay không. Khoản 1 Điều 6 Luật Trọng tài Anh 1996 quy định: “một thỏa thuận trọng tài có nghĩa là một thỏa thuận đệ trình tới trọng tài các tranh chấp hiện tại hoặc trong tương lai dù có hợp đồng hay không”. Hay, khoản 1 Điều 1029 Luật Trọng tài Đức 1998 quy định: ‘‘Một thỏa thuận trọng tài là một thỏa thuận được lập bởi các bên đệ trình tới trọng tài tất cả hoặc những tranh chấp nhất định đã phát sinh hoặc có thể sẽ phát sinh giữa họ liên quan tới một quan hệ pháp lý xác định, dù có hợp đồng hay không”.
Việc xác định “khả năng trọng tài” đặt ra một câu hỏi quan trọng: liệu trọng tài có thể giải quyết mọi loại tranh chấp phát sinh từ các lĩnh vực khác nhau hay không? Trong thực tiễn, pháp luật của nhiều quốc gia hiện nay đã mở rộng phạm vi thẩm quyền của trọng tài, cho phép giải quyết không chỉ tranh chấp thương mại, mà còn cả tranh chấp dân sự, lao động và các tranh chấp về quyền tài sản khác. Chẳng hạn, Điều 1 Luật Trọng tài Brazil 1996 quy định: “Mọi người có năng lực ký kết hợp đồng đều có thể lựa chọn trọng tài để giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền tài sản mà họ có quyền định đoạt.” Các quy định tương tự cũng được ghi nhận tại Điều 2 Luật Trọng tài Trung Quốc 1994, khoản 1 Điều 1030 Luật Trọng tài Đức 1998, và nhiều hệ thống pháp luật khác. Tuy nhiên, sự mở rộng thẩm quyền của trọng tài không phải là tuyệt đối. Trong một số lĩnh vực đặc thù mà lợi ích công cộng hoặc quyền lợi của bên thứ ba bị ảnh hưởng, nhà nước vẫn cần can thiệp thông qua hệ thống Tòa án. Những tranh chấp như hôn nhân và gia đình, thừa kế, một số vấn đề về sở hữu trí tuệ, cạnh tranh không lành mạnh, phá sản hay tranh chấp hành chính thường không thể đưa ra trọng tài mà phải do cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết. Như vậy, mặc dù xu hướng quốc tế là tăng cường phạm vi áp dụng của trọng tài, nhưng ranh giới giữa thẩm quyền của trọng tài và Tòa án vẫn cần được xác định rõ ràng, nhằm bảo đảm hài hòa giữa quyền tự định đoạt của các bên và lợi ích chung của xã hội.
Ví dụ, điều 3 Luật Trọng tài Trung Quốc 1994 quy định: “Tranh chấp về các vấn đề sau không thuộc phạm vi giải quyết của trọng tài: 1) Các tranh chấp về hôn nhân, nuôi con nuôi, giám hộ, cấp dưỡng và thừa kế; 2) Các tranh chấp hành chỉnh theo luật sẽ được giải quyết bởi các cơ quan hành chính”. Hoặc, khoản 2 Điều 1030 Luật Trọng tài Đức 1998 quy định: “Một thỏa thuận trọng tài liên quan tới những tranh chấp về sự tồn tại của một hợp đồng cho thuê nhà để ở trong phạm vi nước Đức sẽ bị vô hiệu…
4. Xử lý xung đột thẩm quyền xét xử giữa Trọng tài và Toà án
Khi có yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp phát sinh được liệt kê ở trên thì Tòa án yêu cầu một hoặc các bên cho biết tranh chấp đó các bên có thoả thuận trọng tài hay không. Tòa án phải kiểm tra, xem xét các tài liệu gửi kèm theo đơn khởi kiện để xác định vụ tranh chấp đó có thuộc trường hợp có thoả thuận trọng tài nhưng Toà án vẫn có thể có thẩm quyền hay không
Tùy từng trường hợp cụ thể mà Tòa án xử lý như sau:
Trường hợp tranh chấp không có thoả thuận trọng tài hoặc đã có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định, phán quyết có hiệu lực pháp luật của Trọng tài xác định vụ tranh chấp không có thỏa thuận trọng tài thì Tòa án xem xét thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền. Trường hợp tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài không thuộc trường hợp bị vô hiệu thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện cho người khởi kiện. Trường hợp sau khi thụ lý vụ án Tòa án mới phát hiện vụ tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài không thuộc trường hợp bị vô hiệu thì Tòa án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án, trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu gửi kèm theo đơn khởi kiện cho người khởi kiện.
Trường hợp đã có yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp và Hội đồng trọng tài đang giải quyết vụ tranh chấp thì dù Tòa án nhận thấy tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Trọng tài, không có thỏa thuận trọng tài hoặc tuy đã có thoả thuận trọng tài nhưng bị vô hiệu mà người khởi kiện có yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, trường hợp Tòa án đã thụ lý thì ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án, trừ trường hợp Tòa án thụ lý vụ tranh chấp trước khi có yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp. Sau khi có quyết định, phán quyết của Hội đồng trọng tài mà người khởi kiện có yêu cầu Tòa án giải quyết, thì Tòa án xem xét thụ lý, giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.