1. Tổng quan về chế định mất quyền phản đối
1.1. Tổng quan về pháp luật quốc tế
Mất quyền phản đối là một quy định đặc trưng được quy định trong tố tụng trọng tài và được ghi nhận trong hầu hết hệ thống pháp luật về trọng tài thương mại của các quốc gia trên thế giới. Vai trò của việc thiết lập chế định mất quyền phản đối trong bối cảnh của hoạt động trọng tài, đặc biệt là trọng tài thương mại quốc tế là rất quan trọng bởi vì tuỳ từng trọng tài sẽ có cách thức tiến hành tố tụng và kỳ vọng của các bên sẽ có sự khác nhau.
Trong hệ thống pháp luật Thông luật (Common Law) chế định này bắt nguồn từ học thuyết “estoppel”(tạm dịch là “không phản đối”) và nguyên tắc “venire contra factum proprium”, đều nhấn mạnh vào sự nhất quán trong hành vi nhằm ngăn chặn việc một bên thay đổi lập trường gây bất lợi cho bên khác. Đối với hệ thống Dân luật (Civil Law) thì chế định này liên quan trực tiếp đến nguyên tắc thiện chí (good faith), tức yêu cầu các bên hành xử trung thực, ngay thẳng và hợp tác, bao gồm cả việc phản đối các vi phạm một cách kịp thời.
1.2. Khái niệm
Mất quyền phản đối được coi là một nguyên tắc và cũng được thừa nhận rộng rãi như một “nguyên tắc cơ bản” trong pháp luật về trọng tài thương mại dựa trên nền tảng công lý và công bằng. Bản chất của nguyên tắc này là thúc đẩy sự nhất quán, thiện chí trong hành vi pháp lý của các bên trong hoạt động tố tụng, đồng thời tránh gây ra sự bất công hay thiên vị có thể phát sinh từ những phản đối không được đưa ra đúng thời điểm của một bên tranh chấp, không làm suy yếu đi tính ổn định và hiệu quả của quá trình tố tụng. Do đó, chế định mất quyền phản đối đã trở thành một phần quan trọng trong pháp luật quốc tế và pháp luật các quốc gia trên thế giới về trọng tài cũng như các quy tắc tố tụng trọng tài.
2. Quy định pháp luật về chế định mất quyền phản đối
2.1. Trong Luật quốc tế
Quy định về mất quyền phản đối trong Luật mẫu UNCITRAL (gọi tắt là Luật Mẫu) về trọng tài thương mại quốc tế tại Điều 4 như sau:
“Khi một bên biết bất kỳ điều khoản nào của Luật này có thể bị các bên vi phạm, hoặc bất kỳ yêu cầu nào theo thoả thuận trọng tài chưa được tuân thủ và vẫn tiếp tục tiến hành thủ tục trọng tài mà không tuyên bố sự phản đối của mình về những việc không chấp hành đó một cách không chậm trễ hoặc, nếu có thời hạn cho phép, trong phạm vi thời hạn cho phép đó, thì sẽ xem như đã từ bỏ quyền phản đối của mình.”
Quy tắc Trọng tài UNCITRAL cũng quy định về chế định này tại Điều 32 như sau:
“Một bên không phản đối ngay lập tức đối với bất kỳ sự không tuân thủ Quy tắc này hoặc yêu cầu của thỏa thuận trọng tài sẽ bị coi là từ bỏ quyền phản đối, trừ khi bên đó chứng minh được rằng trong hoàn cảnh đó việc không phản đối là có lý do hợp lý”.
2.2. Trong Luật Trọng tài thương mại Việt Nam
Chế định này được quy định tại Điều 13 Luật Trọng tài thương mại năm 2010:
“Trong trường hợp một bên phát hiện có vi phạm quy định của Luật này hoặc của thỏa thuận trọng tài mà vẫn tiếp tục thực hiện tố tụng trọng tài và không phản đối những vi phạm trong thời hạn do Luật này quy định thì mất quyền phản đối tại Trọng tài hoặc Tòa án.”
Luật Trọng tài thương mại của Việt Nam được xây dựng dựa trên cơ sở nghiên cứu lý luận, kinh nghiệm thực tiễn từ việc áp dụng Pháp lệnh Trọng tài và tiếp nhận nguyên tắc của Luật Mẫu UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế.
Quy định hướng dẫn thực hiện quy định Điều 13 Luật Trọng tài thương mại tại Điều 6 Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP.
3. Một số vấn đề phát sinh trong thực tiễn áp dụng
Thứ nhất, Trong tố tụng trọng tài, nếu bên tranh chấp biết có sự vi phạm Luật Trọng tài thương mại hoặc thỏa thuận trọng tài mà không đưa ra sự phản đối phù hợp thì họ sẽ mất quyền phản đối tại Trọng tài hoặc tại Tòa án. Luật Trọng tài thương mại năm 2010 ghi nhận chế định “mất quyền phản đối” và quyền khiếu nại quyết định của Hội đồng trọng tài về thẩm quyền. Tuy nhiên, Luật chưa quy định rõ việc không khiếu nại quyết định về thẩm quyền có làm mất quyền phản đối về thẩm quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài hay không. Một vấn đề khác cần được xem xét ở đây là việc mất quyền phản đối có thể phát sinh từ thỏa thuận của các bên (trong hợp đồng) hay không?
Thứ hai, Phản đối cần phải thực hiện trong thời hạn thích hợp theo thứ tự: (i) theo Luật Trọng tài thương mại; (ii) theo thỏa thuận các bên hoặc Quy tắc tố tụng trọng tài; (iii) nếu không có, thì trước thời điểm Hội đồng trọng tài tuyên phán quyết. Thực tiễn cho thấy Luật chỉ quy định một số ít về thời hạn khiếu nại cụ thể để các bên thực hiện việc khiếu nại đối với các vấn đề liên quan. Đối với các vấn đề khác, Luật này không ấn định vấn đề về thời hạn khiếu nại.
Thứ ba, mất quyền phản đối trong giai đoạn công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, căn cứ để Tòa án Việt Nam xem xét không công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài có sự tương đồng với các căn cứ hủy phán quyết trọng tài nội địa. Vậy một vấn đề đặt ra ở đây là liệu rằng một bên có mất quyền phản đối việc công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài trước tòa án Việt Nam trên cơ sở các vi phạm liên quan nếu không thực hiện việc khiếu nại đối với vi phạm này tại quốc gia nơi phán quyết được tuyên?
4. Kết luận – Kiến nghị
Để đảm bảo tính công bằng và hiệu quả của quá trình tố tụng trọng tài thì Mất quyền phản đối là một chế định đóng vai trò quan trọng. Do đó, đặt yêu cầu về việc hoàn thiện quy định liên quan đến chế định là rất cần thiết.
Thứ nhất, đề xuất ban hành án lệ về mất quyền phản đối khi không khiếu nại quyết định của Hội đồng trọng tài về thẩm quyền.
Thứ hai, về thỏa thuận từ bỏ quyền phản đối của các bên, cần xem xét đây là một trường hợp dẫn tới việc các bên mất quyền phản đối trong tố tụng trọng tài.
Thứ ba, cần thống nhất trong việc áp dụng chế định mất quyền phản đối trong giai đoạn công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài. Như đã phân tích ở mục 3 thì chế định mất quyền phản đối có được áp dụng trong giai đoạn công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài hay không vẫn còn chưa rõ ràng ở Việt Nam. Vì vậy, trong bối cảnh các yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài ngày càng gia tăng, việc hướng dẫn cụ thể vấn đề này là rất cần thiết.
5. Cách để giải quyết tranh chấp bằng Trung tâm trọng tài thương mại quốc tế Bigboss
Để giải quyết tranh chấp bằng phương pháp trọng tài thương mại tại BBIAC. Quý khách hàng có thể ghi vào hợp đồng 1 trong 2 nội dung sau:
5.1. Điều khoản Trọng tài mẫu
“Mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này sẽ được giải quyết bằng trọng tài tại Trung tâm Trọng tài Thương mại Quốc tế BIGBOSS (BBIAC) theo Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm này”.
Ngoài ra, các bên có thể bổ sung:
(a) số lượng trọng tài viên là [một hoặc ba].
(b) địa điểm trọng tài là [thành phố và/hoặc quốc gia].
(c) luật áp dụng cho hợp đồng là [ ].*
(d) ngôn ngữ trọng tài là [ ].** Ghi chú: *
Chỉ áp dụng đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài **
Chỉ áp dụng đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài hoặc tranh chấp có ít nhất một bên là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
5.2. Điều khoản Trọng tài mẫu áp dụng cho thủ tục rút gọn
“Mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này sẽ được giải quyết bằng trọng tài tại Trung tâm Trọng tài Thương mại Quốc tế BIGBOSS (BBIAC) theo Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm này. Các bên thỏa thuận rằng tố tụng trọng tài sẽ được tiến hành theo Thủ tục rút gọn quy định tại Điều 37 của Quy tắc tố tụng trọng tài của BBIAC.”
Ngoài ra, các bên có thể bổ sung:
(a) địa điểm trọng tài là [thành phố và/hoặc quốc gia].
(b) luật áp dụng cho hợp đồng là [ ].*
(c) ngôn ngữ trọng tài là [ ]. **
Ghi chú:
* Chỉ áp dụng đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài
** Chỉ áp dụng đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài hoặc tranh chấp có ít nhất một bên là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Liên hệ 0979 133 955 để được tư vấn!