Mô tả:
Bài viết trình bày tổng quan về cơ chế hoạt động của hệ thống giải quyết tranh chấp trực tuyến (ODR) một phương thức mới hình thành phù hợp với đặc điểm của giao dịch thương mại điện tử trong thời đại công nghiệp 4.0. Nội dung đề cập đến ba phương thức chính: thương lượng, hòa giải và trọng tài trực tuyến, cùng các đặc điểm nổi bật như linh hoạt, tiết kiệm chi phí, không bị giới hạn bởi không gian địa lý và ứng dụng công nghệ thông tin. Bên cạnh đó, bài viết phân tích khung pháp lý hiện hành tại Việt Nam và nêu rõ một số vấn đề pháp lý.
1. Cơ chế hoạt động của hệ thống ODR
Với sự phát triển mạnh mẽ của nền công nghiệp 4.0 giao dịch thương mại điện tử đã trở nên phổ biến kéo theo đó là sự hình thành của hình thức giải quyết tranh chấp thương mại điện tử với các đặc thù riêng theo cách thức thông thường như tòa án, thương lượng hòa giải, trọng tài và các biện pháp truyền thống không phải lúc nào cũng phù hợp. Phương thức giải quyết tranh chấp trực tuyến (Online Dispute Resolution – ODR) đã ra đời và ngày càng khẳng định vai trò của mình như một giải pháp hiệu quả, phù hợp với đặc thù của tranh chấp thương mại điện tử. ODR có những ưu điểm so với các cơ chế truyền thống, như thủ tục đơn giản, khả năng tiếp cận thuận tiện cho các bên ở nhiều khu vực địa lý khác nhau, tính linh hoạt cao, tiết kiệm thời gian và chi phí, đồng thời đề cao sự tự nguyện và quyền tự quyết của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp.
Phương thức giải quyết tranh chấp trực tuyến được xây dựng trên nền tảng hệ thống ODR (Online Dispute Resolution). Theo các chuyên gia pháp lý “giải quyết tranh chấp trực tuyến” là một thuật ngữ ghép giữa trực tuyến (Online) và giải quyết tranh chấp thay thế (ADR). Do đó, ODR được hiểu là việc sử dụng các biện pháp giải quyết tranh chấp thay thế với sự hỗ trợ của công nghệ internet (mạng trực tuyến). Với đặc điểm này ODR bao gồm một loạt các quy trình giải quyết tranh chấp thay thế được thực hiện qua cơ chế trực tuyến như internet hoặc một số hình thức công nghệ cho phép thực hiện các kết nối thông tin ảo trên mạng mà không đòi hỏi các bên phải liên hệ trực tiếp trong một không gian vật chất nhất định hệ thống phần mềm được các tổ chức ODR xây dựng nhằm cung cấp dịch vụ giải quyết tranh chấp trực tuyến cho các bên khi có tranh chấp phát sinh, đặc biệt phù hợp cho các tranh chấp thương mại điện tử (TMĐT), tranh chấp tiêu dùng giá trị nhỏ và các tranh chấp dân sự, kinh tế khác mà các bên có sự xa cách về mặt địa lý. Hiện có 4 phương thức giải quyết tranh chấp trực tuyến, gồm: thương lượng trực tuyến (online negotiation); hòa giải trực tuyến (online mediation); trọng tài trực tuyến (online arbitration); các phương thức hỗn hợp khác.
Về cơ chế hoạt động, tùy theo chức năng và phạm vi hoạt động của từng tổ chức ODR, hệ thống ODR sẽ cho phép các bên thực hiện thủ tục giải quyết vụ việc tranh chấp của mình bằng một, hai hay cả ba phương thức sau:
(i) Thương lượng trực tuyến giữa các bên tranh chấp;
(ii) Hòa giải vụ việc tranh chấp trực tuyến giữa các bên với sự tham gia của hòa giải viên thuộc tổ chức ODR;
(iii) Xét xử vụ việc theo thủ tục trọng tài trực tuyến nếu tổ chức ODR có chức năng hoạt động trọng tài.
Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp trực tuyến trên hệ thống ODR sẽ phụ thuộc chặt chẽ vào quy định pháp luật tại từng nước, tuy nhiên có thể thấy rằng, nhờ có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin và truyền thông mà các thủ tục này được thực hiện rất nhanh chóng và thuận tiện.
2. Đặc điểm phương thức giải quyết trọng tài trực tuyến
Giải quyết tranh chấp trực tuyến có những đặc điểm khác với các phương thức giải quyết tranh chấp khác với những đặc điểm sau:
– Thứ nhất, Sự linh hoạt, mềm dẻo, trong đó các yếu tố làm nên nó tương hỗ, bổ trợ lẫn nhau, việc sử dụng ADR vì vậy, có thể không cần đến sự có mặt trực tiếp của các bên tham gia giải quyết tranh chấp, đồng thời, ODR cũng thích hợp với các phương thức thay thế hơn cả khi so sánh với phương thức truyền thống phức tạp. Ngoài ra, giải quyết tranh chấp trực tuyến có thể được áp dụng đối với cả phương thức Tòa án, tuy nhiên, ODR vẫn được hiểu một cách rộng rãi là sự kết hợp giữa ADR (phương thức giải quyết tranh chấp thay thế, ngoài Tòa án) và công nghệ Internet.
– Thứ hai, ODR là giải pháp không bị giới hạn trong khuôn khổ một quốc gia. Tính tiện ích của công nghệ và tính linh hoạt, tự nguyện đặc trưng của các ADR khiến cho việc giải quyết tranh chấp thương mại điện tử giữa các chủ thể có thể tiến hành vượt qua biên giới quốc gia.
– Thứ ba, Bắt buộc phải có sự hiện diện của công nghệ điện tử. Công cụ này có thể được hiểu như mạng Internet hoặc các thiết bị kết nối thông tin, lưu giữ và truyền tải dữ liệu và kết nối với Internet hoặc các mạng nội bộ. Cổng thông tin trực tuyến quốc gia kết nối với website của nhà cung cấp dịch vụ thương mại điện tử là một hình thức phổ biến nhất để tiếp nhận và xử lý các yêu cầu giải quyết tranh chấp khiếu nại giữa khách hàng và nhà cung cấp.
– Thứ tư, các tổ chức cung cấp ODR tồn tại dưới nhiều hình thức đa dạng. Theo đó, họ có thể là các tổ chức ODR chuyên nghiệp cung cấp các dịch vụ hòa giải, trung gian, trọng tài; có thể là các website cung cấp dịch vụ mua bán trực tuyến; hoặc là các thương nhân tự lập website và đính kèm điều khoản về giải quyết tranh chấp do họ tự thiết lập.
Các đặc điểm trên cho thấy, so với những phương thức giải quyết tranh chấp truyền thống, ODR tồn tại những ưu điểm và hạn chế nhất định. Vì vậy, khi lựa chọn phương thức giải quyết các bên cần tìm hiểu, phân tích kỹ càng để lựa chọn phương thức phù hợp nhất.

3. Khung pháp lý và một số vấn đề pháp lý liên quan:
Hiện nay, quy định pháp luật nước ta chưa có văn bản điều chỉnh trực tiếp về giải quyết tranh chấp trực tuyến. Tuy nhiên, có thể dựa trên hệ thống các văn bản hỗ trợ để áp dụng cho việc giải quyết tranh chấp thương mại trực tuyến như:
- Luật giao dịch điện tử năm 2023 đã tạo nền tảng pháp lý cơ bản khi đưa ra các quy định thừa nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử, thông điệp dữ liệu điện tử.
- Luật Công nghệ thông tin được ban hành năm 2006, quy định tổng thể về hoạt động ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, các biện pháp bảo đảm và phát triển công nghệ thông tin, quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin.
- Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023 đưa ra quy định về giải quyết tranh chấp đối với mọi đối tượng người tiêu dùng, bao gồm cả người tiêu dùng mua hàng hoá, dịch vụ trực tuyến với quy định rõ ràng về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ liên quan đến trọng tài truyền thống.
- Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định về “thẩm quyền của Trọng tài thương mại, các hình thức trọng tài, tổ chức trọng tài, Trọng tài viên; trình tự, thủ tục trọng tài; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên trong tố tụng trọng tài; thẩm quyền của Tòa án đối với hoạt động trọng tài; tổ chức và hoạt động của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, thi hành phán quyết trọng tài” (Điều 1 Luật Trọng tài thương mại năm 2010). Bên cạnh đó, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có quy định thêm về vấn đề công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài.
Quy định pháp luật nước ta hiện tại chỉ có một số quy định tản mạn về giải quyết tranh chấp trong giao dịch thương mại điện tử có liên quan gián tiếp đến cách thức tiến hành giải quyết tranh chấp trọng tài trực tuyến. Sự thiếu hụt trong điều chỉnh của pháp luật đang tạo ra những lúng túng trong việc áp dụng giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trực tuyến, cụ thể:
- Một là, vấn đề xác định tính hợp pháp của thỏa thuận trọng tài trực tuyến
Điều 16 Luật trọng tài thương mại năm 2010 quy định thỏa thuận trọng tài phải được xác lập bằng văn bản, dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng. Thỏa thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện tử cũng sẽ được công nhận là một thỏa thuận hợp pháp. Bên cạnh đó, tại Điều 10 Luật giao dịch điện tử năm 2005 khẳng định: “Thông điệp dữ liệu được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác” và Điều 12 quy định Thông điệp dữ liệu có giá trị như văn bản: “Trường hợp pháp luật yêu cầu thông tin phải được thể hiện bằng văn bản thì thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng yêu cầu này nếu thông tin chứa trong thông điệp dữ liệu đó có thể truy cập và sử dụng được để tham chiếu khi cần thiết.” Đồng thời, khoản 2 Điều 22 Luật giao dịch điện tử 2023 cũng quy định chữ ký điện tử có khả năng xác nhận người ký thông điệp dữ liệu và xác nhận sự chấp thuận của người đó đối với nội dung thông điệp dữ liệu được ký. Đây là yếu tố quan trọng để từ đó xây dựng cơ chế của trọng tài trực tuyến, khi nộp tài liệu, chứng cứ của phương thức này đều thông qua phương tiện điện tử và có căn cứ khẳng định hình thức thỏa thuận trọng tài phù hợp với hình thức theo quy định pháp luật.
- Hai là, về việc xác định địa điểm giải quyết trọng tài trực tuyến.
Khi giải quyết tranh chấp trực tuyến, các thành viên của hội đồng trọng tài sẽ không có cuộc gặp mặt trực tiếp với các bên tranh chấp mà chỉ cần ở các nước khác nhau họp thông qua cuộc gọi trực tuyến (video call hoặc chat room). Vậy, nếu như các bên thỏa thuận địa điểm giải quyết tranh chấp tại Việt Nam nhưng các trọng tài viên lại được chọn từ các nước khác nhau như Pháp, Anh, Singapore thì phiên họp trực tuyến đó có phù hợp với thỏa thuận về địa điểm của trọng tài hay không? Nếu hội đồng trọng tài trong trường hợp này xét xử trực tuyến có bị xem là vi phạm thủ tục tố tụng trọng tài và bị từ chối công nhận và cho thi hành do vi phạm thủ tục tố tụng theo điểm d khoản 1 Điều 5 của Công ước New York 1958 hoặc bị huỷ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 68 Luật TTTM Việt Nam hay không? Hoặc nếu trọng tài xét xử trực tuyến thì nơi nào được xem là địa điểm giải quyết tranh chấp để có thể xác định luật áp dụng cho thoả thuận trọng tài, xác định phạm vi tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài và thậm chí xác định cả thủ tục huỷ hay từ chối công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài”?. Pháp luật Việt Nam không xác định yếu tố địa điểm trọng tài “là địa điểm về mặt pháp lý” như quy định của pháp luật Anh. Khoản 8 Điều 3 Luật trọng tài thương mại 2010 quy định địa điểm giải quyết tranh chấp bằng trọng tài “là nơi hội đồng trọng tài tiến hành giải quyết tranh chấp theo sự thỏa thuận lựa chọn của các bên hoặc do Hội đồng trọng tài quyết định nếu các bên không có thoả thuận. Nếu địa điểm giải quyết tranh chấp được tiến hành trên lãnh thổ Việt Nam thì phán quyết phải được xem là tuyên tại lãnh thổ Việt Nam mà không phụ thuộc vào nơi Hội đồng trọng tài tiến hành phiên họp để ra phán quyết đó”. Theo đó, Việt Nam không xác định địa điểm trọng tài là “địa điểm về mặt pháp lý” mà là địa điểm về mặt địa lý. Do đó, sẽ có rủi ro cho phán quyết trọng tài xét xử trực tuyến bị từ chối công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc bị huỷ vì vi phạm thủ tục tố tụng trọng tài. Vì vậy, trong tương lai, nếu Việt Nam muốn ủng hộ hoạt động trọng tài trực tuyến thì cần phải thay đổi quy định về vấn đề này.
- Ba là, hình thức phán quyết của trọng tại trực tuyến.
Phán quyết trọng tài được lập thành văn bản và có chữ ký hợp lệ của hội đồng trọng tài là một tiêu chuẩn và thông lệ toàn cầu. Điều IV.1.a của Công ước New York về công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài năm 1958 yêu cầu bên công nhận và/hoặc thi hành phán quyết trọng tài phải cung cấp “Bản quyết định gốc có xác nhận hợp lệ hoặc một bản sao quyết định có chứng nhận hợp lệ”. Giống với pháp luật về trọng tài của nhiều nước, cũng như quy tắc tố tụng trọng tài của nhiều thiết chế trọng tài quốc tế, pháp luật Việt Nam cũng quy định rằng hình thức của quyết định trọng tài là bằng văn bản và phải có chữ ký của Trọng tài viên. Thách thức được đặt ra là phán quyết thường được đưa ra trực tuyến, có nghĩa phán quyết có thể hoặc là: (i) hồ sơ điện tử về phán quyết bằng văn bản giấy, ví dụ như tài liệu giấy được quét của một bản phán quyết gốc có chữ ký hoặc (ii) một phán quyết trực tuyến được hiển thị ở định dạng điện tử và chữ ký. Loại phán quyết trọng tài đầu tiên cần phải có một phán quyết bằng giấy với chữ ký hợp lệ của trọng tài, sau đó được scan và gửi tới các bên liên quan. Loại phán quyết trọng tài thứ hai là ‘phán quyết điện tử’ được viết và ký điện tử. Câu hỏi đặt ra là một phán quyết điện tử có hình thức như vậy liệu có được xem là bản gốc? Và khi phán quyết điện tử này được in ra thành văn bản giấy thì liệu phán quyết có còn được xem là bản gốc hay không?
Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trực tuyến khác biệt so với trọng tài truyền thống ở chỗ quy trình tố tụng và xét xử diễn ra trong không gian mạng. Với những quy định được phân tích ở trên, pháp luật Việt Nam không hề đề cập đến việc có thể sử dụng chữ ký điện tử thay thế chữ kí truyền thống hay không? Điều này gây ra thắc mắc trong quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trực tuyến về hiệu lực pháp lý của phán quyết và chữ ký điện tử. Do đó, hình thức phán quyết là vấn đề cần cân nhắc và phải có quy định cụ thể, tránh có những sự tuỳ tiện trong giải thích và áp dụng điều khoản này trên thực tế.