Thời gian làm việc: 08:00 - 11:30 và 13:30 - 17:00 từ Thứ Hai đến Thứ Sáu

Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng các Trọng tài thương mại tại các trung tâm trọng tài Việt Nam

Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng các Trọng tài thương mại tại các trung tâm trọng tài Việt Nam
Mục lục

1. Khái quát về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài thương mại

Trọng tài thương mại quốc tế là một phương thức giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án, dựa trên sự thỏa thuận của các bên, trong đó phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm và bắt buộc thi hành. So với lựa chọn Tòa án, Trọng tài có nhiều ưu thế như thủ tục linh hoạt, đảm bảo tính bảo mật, tiết kiệm thời gian và chi phí, đồng thời cho phép các bên lựa chọn trọng tài viên am hiểu chuyên ngành cũng như hệ thống pháp luật liên quan. Đây là những đặc điểm quan trọng, phù hợp với xu thế toàn cầu hóa và nhu cầu giải quyết tranh chấp thương mại nhanh chóng, hiệu quả.

Tại Việt Nam, cơ sở pháp lý cho hoạt động trọng tài thương mại quốc tế hiện nay chủ yếu dựa trên Luật Trọng tài thương mại năm 2010, cùng với việc Việt Nam tham gia các điều ước quốc tế quan trọng như Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài. Khung pháp lý này đã tạo điều kiện để các Trung tâm Trọng tài thương mại quốc tế ở Việt Nam, trở thành địa chỉ tin cậy được nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước lựa chọn khi phát sinh tranh chấp.

Tính đến 2023 toàn quốc đã có 43 Trung tâm Trọng tài thương mại, phân bố chủ yếu tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Mặc dù vẫn chưa có sự phân bố đồng đều trên toàn quốc nhưng số lượng Trung tâm Trọng tài lẫn số lượng Trọng tài viên tại Việt Nam đã tăng gần như gấp đôi so với năm 2020 (23 Trung tâm Trọng tài). Cụ thể, ở Việt Nam đã có đến 43 Trung tâm Trọng tài và 01 văn phòng đại diện của Ủy ban Trọng tài thương mại Hàn Quốc với khoảng hơn 700 Trọng tài viên, bao gồm cả Trọng tài viên là người nước ngoài.

2. Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế tại các Trung tâm Trọng tài thương mại quốc tế Việt Nam

2.1. Quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế tại các Trung tâm Trọng tài thương mại quốc tế Việt Nam

Luật Trọng tài thương mại 2010, được thông qua ngày 17/6/2010 và có hiệu lực từ 01/01/2011, là văn bản pháp lý quan trọng điều chỉnh hoạt động trọng tài thương mại tại Việt Nam. Đạo luật này tiếp thu nhiều nguyên tắc cơ bản của Luật Mẫu UNCITRAL như: tôn trọng thỏa thuận của các bên, tính độc lập của thỏa thuận trọng tài, quyền tự xem xét thẩm quyền của Hội đồng trọng tài và tính chung thẩm của phán quyết trọng tài. Những nguyên tắc này giúp bảo đảm sự linh hoạt, hiệu quả và tiệm cận với thông lệ quốc tế trong giải quyết tranh chấp thương mại.

Để cụ thể hóa Luật Trọng tài thương mại 2010, nhiều văn bản dưới luật đã được ban hành. Tiêu biểu là Nghị định 63/2011/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật; Thông tư 12/2012/TT-BTP của Bộ Tư pháp ban hành các biểu mẫu phục vụ tổ chức và hoạt động trọng tài; và Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng luật trong thực tiễn xét xử. Các văn bản này tạo nên khung pháp lý thống nhất, giúp khắc phục những điểm chưa rõ trong luật gốc.

Nhìn chung, Luật Trọng tài thương mại 2010 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành đã đặt nền tảng pháp lý tương đối hoàn thiện cho hoạt động giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tại Việt Nam. Khung pháp lý này vừa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn trong nước, vừa đảm bảo sự hài hòa với pháp luật và thông lệ quốc tế.

2.2. Một số điểm còn hạn chế của pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài thương mại tại các Trung tâm Trọng tài thương mại quốc tế Việt Nam

Đầu tiên, là những hạn chế trong quy định về các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Hạn chế về thỏa thuận trọng tài vô hiệu do người không có thẩm quyền Điều 3 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP hướng dẫn khoản 2 Điều 18 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định: thỏa thuận trọng tài do người không có thẩm quyền xác lập có thể không bị coi là vô hiệu nếu người có thẩm quyền “đã chấp nhận hoặc đã biết mà không phản đối”. Tuy nhiên, chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể về cách xác định tình huống “chấp nhận hoặc đã biết mà không phản đối”. Điều này dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau trong thực tiễn và tạo khó khăn cho Hội đồng trọng tài khi xem xét tính hợp lệ của thỏa thuận. 

Khoản 3 Điều 18 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định thỏa thuận trọng tài vô hiệu nếu được xác lập bởi người không có năng lực hành vi dân sự theo Bộ luật Dân sự. Quy định này phù hợp với tranh chấp trong nước nhưng lại chưa phù hợp khi giải quyết tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Vấn đề đặt ra là liệu năng lực hành vi dân sự của chủ thể nước ngoài có nên được xác định theo pháp luật Việt Nam hay theo pháp luật quốc tịch của họ. Mặc dù Điều 674 Bộ luật Dân sự 2015 đã chỉ rõ phải áp dụng pháp luật quốc tịch, nhưng Luật Trọng tài thương mại 2010 chỉ dừng ở quy định chung chung, chưa đề cập đến trường hợp có yếu tố nước ngoài, gây ra sự thiếu thống nhất trong áp dụng.

Thứ hai, hạn chế về căn cứ hủy phán quyết trọng tài: Khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định phán quyết trọng tài sẽ bị hủy nếu “trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”. Dù khoản 2 Điều 14 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP đã giải thích đây là trường hợp phán quyết vi phạm “nguyên tắc xử sự cơ bản có hiệu lực bao trùm đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật Việt Nam”, nhưng khái niệm này vẫn quá chung chung, thiếu tiêu chí cụ thể. Chính sự mơ hồ này dẫn đến nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau trong thực tiễn, tạo nguy cơ phán quyết trọng tài bị hủy bỏ dễ dàng khi có sự khác biệt giữa cách nhìn nhận của Hội đồng trọng tài và Tòa án.

Thứ ba, hạn chế về việc chỉ định Trọng tài viên khẩn cấp: Luật Trọng tài thương mại 2010 chưa có quy định về cơ chế chỉ định Trọng tài viên khẩn cấp. Theo Điều 49, Hội đồng trọng tài có thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi có yêu cầu, nhưng điều này chỉ được thực hiện sau khi Hội đồng đã được thành lập. Như vậy, trong khoảng thời gian trước khi Hội đồng trọng tài hình thành, các bên không có công cụ pháp lý để yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp. Thực tiễn tại các Trung tâm trọng tài quốc tế ở Việt Nam đã ghi nhận nhiều trường hợp gây bất lợi nghiêm trọng cho một bên tranh chấp vì không kịp thời nhận được sự bảo vệ cần thiết.

3. Thực tiễn áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng Trọng tài thương mại tại các Trung tâm Trọng tài thương mại quốc tế Việt Nam

3.1. Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật 

Trong thực tiễn xét xử, vẫn còn tình trạng thẩm phán nhầm lẫn giữa sự tồn tại của hợp đồng chính và thỏa thuận trọng tài. Có trường hợp tòa án bác bỏ thỏa thuận trọng tài chỉ vì giữa các bên không tồn tại hợp đồng thuê, trong khi theo nguyên tắc độc lập, thỏa thuận trọng tài có thể tồn tại và phát sinh hiệu lực ngay cả khi hợp đồng chính không được xác lập hợp lệ. Cách hiểu này làm hạn chế hiệu lực của cơ chế trọng tài, đồng thời gây bất ổn cho môi trường giải quyết tranh chấp thương mại.

Bên cạnh đó, khả năng tiếp cận thông tin và nguồn kinh nghiệm trong tố tụng trọng tài tại Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế. Các sinh viên luật, luật gia, luật sư hay cả Trọng tài viên thế hệ sau gặp khó khăn trong việc tìm kiếm tài liệu, phán quyết để học tập và rút kinh nghiệm từ các vụ việc trước. Trên thực tế, hầu như rất ít có cơ hội tiếp cận nội dung chi tiết của các phán quyết trọng tài, ngoại trừ cuốn “50 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc” do VIAC phát hành từ hơn 15 năm trước.

Ngoài ra, dù các trung tâm trọng tài đã thường xuyên tổ chức hội thảo, sự kiện chuyên đề để chia sẻ kinh nghiệm, nhưng thông tin vẫn khó tiếp cận so với hệ thống bản án của tòa án. Một số sự kiện không thể tham dự trực tuyến, nhiều hội thảo phải trả phí, dẫn đến việc phổ biến kiến thức về thực tiễn trọng tài chưa được rộng rãi. Điều này làm giảm cơ hội nâng cao năng lực cho đội ngũ kế cận và làm chậm quá trình phát triển hệ thống trọng tài thương mại tại Việt Nam.

3.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật

Về năng lực của các Trung tâm Trọng tài thương mại, nhiều Trung tâm Trọng tài còn thiếu cơ sở vật chất, quản trị chưa chuyên nghiệp, hoạt động kém hiệu quả. Không ít Trung tâm ít vụ việc, thậm chí chưa từng ban hành phán quyết, khiến Trọng tài viên thiếu cơ hội thực hành, dễ dẫn đến sai sót và phán quyết bị hủy.

Về quản lý nhà nước về Trọng tài thương mại, công tác quản lý nhà nước chưa được chú trọng, nhất là tại các địa phương mới thành lập Trung tâm Trọng tài. Đội ngũ cán bộ quản lý thiếu kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm, chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn.

Về thực tiễn áp dụng pháp luật tại Tòa án, các Tòa án địa phương ít thụ lý vụ việc về Trọng tài thương mại, nên thẩm phán, thư ký thiếu kinh nghiệm áp dụng Luật Trọng tài thương mại 2010. Việc tập huấn, đào tạo chuyên môn còn hạn chế, ảnh hưởng chất lượng xét xử.

Về tiếp cận thông tin và kinh nghiệm tố tụng, nguyên tắc bảo mật trong tố tụng trọng tài bảo vệ quyền lợi các bên nhưng hạn chế việc chia sẻ thông tin, khiến học giả và Trọng tài viên khó tiếp cận kinh nghiệm thực tiễn, làm giảm cơ hội học hỏi và phát triển chuyên môn.

4. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng Trọng tài

Hoàn thiện quy định về thỏa thuận Trọng tài vô hiệu. Hiện nay, các quy định về thỏa thuận Trọng tài vô hiệu còn thiếu rõ ràng, đặc biệt trong Điều 3 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP và khoản 2, khoản 3 Điều 18 Luật Trọng tài thương mại 2010. Để khắc phục, cần bổ sung hướng dẫn cụ thể về việc xác định “người có thẩm quyền đã chấp nhận hoặc đã biết mà không phản đối”, thể hiện thông qua văn bản chấp thuận, biên bản cuộc họp, công văn hoặc việc không phản đối trong quá trình tố tụng. Đồng thời, nên sửa đổi khoản 3 Điều 18, thay vì dẫn chiếu Bộ luật Dân sự Việt Nam, cần quy định năng lực hành vi dân sự của chủ thể nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước mà người đó mang quốc tịch. Điều này giúp thống nhất cách hiểu, phù hợp hơn với tranh chấp thương mại quốc tế.

Hoàn thiện quy định về căn cứ hủy phán quyết Trọng tài. Khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định phán quyết bị hủy nếu trái với “nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”, nhưng khái niệm này vẫn chưa đủ cụ thể, dù đã có giải thích tại Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP. Do cách hiểu còn chung chung, dễ dẫn đến lạm dụng hoặc mâu thuẫn khi áp dụng, cần ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết hơn. Việc xác định rõ “nguyên tắc cơ bản” sẽ góp phần thống nhất nhận thức giữa Tòa án và Hội đồng Trọng tài, đồng thời hạn chế tình trạng phán quyết bị hủy tùy tiện.

Bổ sung quy định về Trọng tài viên khẩn cấp: Luật Trọng tài thương mại 2010 chưa có cơ chế chỉ định Trọng tài viên khẩn cấp, trong khi đây là nhu cầu thiết thực khi các bên cần áp dụng biện pháp tạm thời trước khi Hội đồng Trọng tài được thành lập. Kinh nghiệm từ Luật Trọng tài quốc tế Singapore cho thấy, việc công nhận Trọng tài viên khẩn cấp như một Hội đồng Trọng tài thông thường, với phán quyết có hiệu lực tương đương, là giải pháp hiệu quả để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên. Việt Nam nên tham khảo và bổ sung quy định này để tránh tình trạng áp dụng biện pháp khẩn cấp bị chậm trễ, gây bất lợi cho một bên tranh chấp.

5. Cách để giải quyết tranh chấp bằng Trung tâm trọng tài thương mại quốc tế Bigboss

Để giải quyết tranh chấp bằng phương pháp trọng tài thương mại tại BBIAC. Quý khách hàng có thể ghi vào hợp đồng 1 trong 2 nội dung sau: 

5.1. Điều khoản Trọng tài mẫu

“Mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này sẽ được giải quyết bằng trọng tài tại Trung tâm Trọng tài Thương mại Quốc tế BIGBOSS (BBIAC) theo Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm này”.

Ngoài ra, các bên có thể bổ sung: 

(a) số lượng trọng tài viên là [một hoặc ba].

(b) địa điểm trọng tài là [thành phố và/hoặc quốc gia]. 

(c) luật áp dụng cho hợp đồng là [ ].* 

(d) ngôn ngữ trọng tài là [ ].** Ghi chú: * 

Chỉ áp dụng đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài ** 

Chỉ áp dụng đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài hoặc tranh chấp có ít nhất một bên là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

5.2. Điều khoản Trọng tài mẫu áp dụng cho thủ tục rút gọn 

“Mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này sẽ được giải quyết bằng trọng tài tại Trung tâm Trọng tài Thương mại Quốc tế BIGBOSS (BBIAC) theo Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm này. Các bên thỏa thuận rằng tố tụng trọng tài sẽ được tiến hành theo Thủ tục rút gọn quy định tại Điều 37 của Quy tắc tố tụng trọng tài của BBIAC.”

Ngoài ra, các bên có thể bổ sung:

(a) địa điểm trọng tài là [thành phố và/hoặc quốc gia].

(b) luật áp dụng cho hợp đồng là [ ].*

(c) ngôn ngữ trọng tài là [ ]. **

Ghi chú:

* Chỉ áp dụng đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài.

** Chỉ áp dụng đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài hoặc tranh chấp có ít nhất một bên là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Liên hệ 0979 133 955 để được tư vấn!

Tin liên quan
.
Lên đầu trang

Đăng tài liệu

TIÊU ĐỀ BÀI ĐĂNG
NỘI DUNG BÀI ĐĂNG
tải tệp lên (chỉ pdf)
Maximum file size: 512 MB