Hòa giải thành là một chế định quan trọng trong tố tụng dân sự và hành chính tại Việt Nam, đóng vai trò thiết yếu trong việc giải quyết các tranh chấp. Với sự ra đời của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án số 58/2020/QH14 và các quy định liên quan, cơ chế công nhận kết quả hòa giải thành đã được thiết lập một cách đầy đủ và chi tiết. Bài viết này sẽ phân tích các khía cạnh pháp lý về việc công nhận kết quả hòa giải thành tại tòa án và quy trình thực hiện, đồng thời làm rõ nhiều vấn đề còn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng.
1. Khái niệm và cơ sở pháp lý về hòa giải thành
1.1.Khái niệm hòa giải và hòa giải thành
Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp với sự giúp đỡ của bên thứ ba trung lập, làm trung gian, giúp các bên tranh chấp tự nguyện thỏa thuận giải quyết những bất đồng và đạt được thỏa thuận, phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội và tự nguyện thực hiện những thỏa thuận đó. Đây là một biện pháp mang tính truyền thống, phù hợp với đặc điểm tâm lý của người Việt Nam – vốn coi trọng tình làng nghĩa xóm, mong muốn “đóng cửa bảo nhau”, “chín bỏ làm mười”.
Hòa giải thành được hiểu là kết quả của quá trình hòa giải khi các bên tham gia đã tự nguyện thỏa thuận về việc giải quyết toàn bộ hoặc một phần vụ việc dân sự, hoặc tự nguyện thống nhất về việc giải quyết một phần hoặc toàn bộ khiếu kiện hành chính. Như vậy, hòa giải thành là trạng thái kết thúc của quá trình hòa giải khi các bên đã đạt được sự thống nhất về cách giải quyết tranh chấp.
1.2.Cơ sở pháp lý về hòa giải và công nhận kết quả hòa giải thành
Cơ sở pháp lý về hòa giải và công nhận kết quả hòa giải thành tại Việt Nam bao gồm:
- Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: Quy định về điều kiện công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án tại Điều 417, có hiệu lực từ ngày 01/07/2016.
- Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án số 58/2020/QH14: Được Quốc hội thông qua ngày 16/6/2020, có hiệu lực từ ngày 01/01/2021, quy định về hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án và các vấn đề liên quan.
- Thông tư 02/2020/TT-TANDTC ngày 16/11/2020 của Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết về trách nhiệm của Tòa án nhân dân trong hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
- Công văn 235/TANDTC-PC năm 2021 ban hành các biểu mẫu về quyết định công nhận, không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành.
1.3. Các phương thức hòa giải trong hệ thống pháp luật Việt Nam:
Hòa giải ở cơ sở
Đây là phương thức hòa giải có vai trò, ý nghĩa quan trọng, xuất phát từ đặc điểm lịch sử, truyền thống, tâm lý dân tộc Việt Nam. Theo Luật Hòa giải ở cơ sở, hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật. Hiện nay, cả nước có 86.414 tổ hòa giải với 540.740 hòa giải viên, trung bình mỗi năm tiến hành hòa giải trên hàng trăm nghìn vụ việc, góp phần giải quyết các mâu thuẫn ngay từ cơ sở.
Hòa giải tại Tòa án
Hòa giải tại Tòa án là hoạt động hòa giải do Hòa giải viên tiến hành trước khi Tòa án thụ lý vụ việc dân sự, nhằm hỗ trợ các bên tham gia hòa giải thỏa thuận giải quyết vụ việc dân sự theo quy định. Đây là một bước tiến đáng kể trong hệ thống tư pháp Việt Nam khi Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án 2020 chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2021.
Hòa giải ngoài Tòa án
Hòa giải ngoài Tòa án được hiểu là việc các bên tự thỏa thuận và sau đó yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án. Điều kiện công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được quy định cụ thể tại Điều 417 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
2. Nguyên tắc xác định hòa giải thành trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính
2.1 Nguyên tắc chung
Theo quy định, có một số nguyên tắc chung để xác định hòa giải thành, đối thoại thành trong giải quyết các vụ việc dân sự, vụ án hành chính như sau:
Thứ nhất, sau khi thụ lý vụ án dân sự, vụ án hành chính, Thẩm phán tiến hành hòa giải, đối thoại mà sau khi hòa giải, đối thoại, người khởi kiện rút đơn khởi kiện hoặc các đương sự thống nhất được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án nên Tòa án không phải đưa vụ án ra xét xử thì được xác định là hòa giải thành, đối thoại thành.
Thứ hai, sau khi thụ lý việc dân sự về yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, Thẩm phán tiến hành hòa giải mà sau khi hòa giải, vợ chồng đoàn tụ thì được xác định là hòa giải thành.
2.2. Các trường hợp cụ thể tính vụ việc hòa giải thành
Vụ việc dân sự thuộc một trong các trường hợp sau đây được tính là vụ việc hòa giải thành:
- Các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án; Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự theo quy định tại Điều 212 và Điều 213 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
- Sau khi hòa giải, nguyên đơn rút đơn khởi kiện; Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự với lý do người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
- Vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn mà sau khi hòa giải, vợ chồng thống nhất đoàn tụ cũng được xác định là trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện.
- Vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn được Thẩm phán tiến hành hòa giải mà sau khi hòa giải, vợ, chồng không đoàn tụ nhưng thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản chung; Tòa án quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự.
2.3 Mục đích của việc hòa giải, đối thoại tại Tòa án
Hòa giải, đối thoại tại Tòa án nhằm mục đích khuyến khích các bên tự nguyện giải quyết tranh chấp trên cơ sở thương lượng, đồng thuận, từ đó tránh được việc đưa ra bản án cưỡng chế hay quyết định của Tòa án. Việc hòa giải, đối thoại sẽ giúp giảm bớt sự căng thẳng, xung đột giữa các bên, đồng thời mở ra cơ hội cho mối quan hệ tương lai của họ tiếp tục được duy trì, đặc biệt trong các vụ án về hôn nhân gia đình hoặc tranh chấp giữa các đối tác kinh doanh.
Ngoài ra, một mục đích quan trọng khác của hòa giải, đối thoại là giúp giảm thiểu số lượng vụ án phải đưa ra xét xử. Khi các bên đạt được thỏa thuận thông qua hòa giải, đối thoại, Tòa án sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận đó, tạo sự kết thúc nhanh chóng và hợp pháp cho vụ việc. Tỷ lệ hòa giải thành trung bình cả nước trong 10 năm qua đạt 81,2%, đây là một con số ấn tượng cho thấy hiệu quả của việc hòa giải trong hệ thống tư pháp Việt Nam.
3. Điều kiện công nhận kết quả hòa giải thành
Theo Điều 33 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án 2020, điều kiện để công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án bao gồm:
- Các bên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
- Các bên có quyền, nghĩa vụ với nội dung hòa giải.
- Nội dung hòa giải tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không vì trốn tránh nghĩa vụ với cơ quan, cá nhân, Nhà nước.
- Trong trường hợp thuận tình ly hôn: Thỏa thuận phải có đầy đủ nội dung về ly hôn, chia tài sản, giành quyền nuôi con…
- Nội dung hòa giải liên quan đến người khác không có mặt thì chỉ được công nhận hòa giải nếu người khác này đồng ý bằng văn bản.
Chỉ công nhận nội dung thỏa thuận, thống nhất không liên quan đến tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính khác.
4. Điều kiện công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án
Theo Điều 417 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, điều kiện công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án bao gồm:
- Các bên tham gia thỏa thuận hòa giải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự.
- Các bên tham gia thỏa thuận hòa giải là người có quyền, nghĩa vụ đối với nội dung thỏa thuận hòa giải. Trường hợp nội dung thỏa thuận hòa giải thành liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người thứ ba thì phải được người thứ ba đồng ý.
- Một hoặc cả hai bên có đơn yêu cầu Tòa án công nhận.
- Nội dung thỏa thuận hòa giải thành của các bên là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba.
Trường hợp không tiến hành hòa giải, đối thoại tại Tòa án
Theo quy định tại Điều 19 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án, các trường hợp không tiến hành hòa giải, đối thoại tại Tòa án bao gồm:
- Yêu cầu đòi bồi thường do gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước.
- Vụ việc phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội.
- Người khởi kiện, người yêu cầu, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được mời tham gia hòa giải, đối thoại hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan hoặc không thể tham gia hòa giải, đối thoại được vì có lý do chính đáng.
- Một bên vợ hoặc chồng trong tranh chấp ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự.
- Một trong các bên đề nghị không tiến hành hòa giải, đối thoại.
- Một trong các bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính.
- Trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
5. Quy trình công nhận kết quả hòa giải thành
5.1. Thời hạn hòa giải, đối thoại tại Tòa án
Thời hạn hòa giải, đối thoại tại Tòa án được quy định tại Điều 20 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án như sau:
- Thời hạn hòa giải, đối thoại là 20 ngày kể từ ngày Hòa giải viên được chỉ định; đối với vụ việc phức tạp, thời hạn này có thể được kéo dài nhưng không quá 30 ngày.
- Các bên có thể thống nhất kéo dài thời hạn hòa giải, đối thoại, nhưng không quá 02 tháng.
5.2. Trình tự, thủ tục thực hiện việc hòa giải, đối thoại tại Tòa án
Trình tự, thủ tục thực hiện việc hòa giải, đối thoại tại Tòa án được chia làm các giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1: Tiến hành phiên hòa giải, đối thoại tại Tòa án
Khi các bên đồng ý gặp nhau để thống nhất phương án giải quyết vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính, hòa giải, đối thoại viên ấn định thời gian, địa điểm tiến hành phiên hòa giải, đối thoại và thông báo cho các bên, người đại diện, người phiên dịch chậm nhất là 05 ngày trước ngày mở phiên hòa giải, đối thoại. Việc thông báo có thể được thực hiện bằng văn bản hoặc hình thức khác thuận tiện cho các bên.
Giai đoạn 2: Tiến hành phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại tại Tòa án
Khi các bên đạt được sự thỏa thuận, thống nhất với nhau về việc giải quyết toàn bộ hoặc một phần vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính, hòa giải, đối thoại viên ấn định thời gian, địa điểm mở phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại.
Phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại có thể được tổ chức ngay sau phiên hòa giải, đối thoại hoặc vào thời gian phù hợp khác. Hòa giải, đối thoại viên phải thông báo cho các bên liên quan.
Giai đoạn 3: Thủ tục ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành
Theo quy định tại Điều 32 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án 2020, thủ tục ra quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án được thực hiện như sau:
Sau khi lập biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, hòa giải viên chuyển biên bản cùng tài liệu kèm theo cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính để ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành trong trường hợp các bên có yêu cầu.
Thời hạn chuẩn bị ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành là 15 ngày kể từ ngày Tòa án nhận được biên bản và tài liệu kèm theo. Trong thời hạn này, Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công xem xét ra quyết định có các quyền sau đây:
Yêu cầu một hoặc các bên trình bày ý kiến về kết quả hòa giải thành, đối thoại thành đã được ghi tại biên bản;
Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền cung cấp cho Tòa án tài liệu làm cơ sở cho việc ra quyết định, nếu xét thấy cần thiết. Cơ quan, tổ chức, cá nhân được Tòa án yêu cầu có trách nhiệm trả lời Tòa án trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu của Tòa án.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án nhận được biên bản và tài liệu kèm theo, Thẩm phán phải ra một trong các quyết định sau đây:
– Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành;
– Quyết định không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành.
– Nội dung quyết định công nhận kết quả hòa giải thành
Theo Điều 34 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án, quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án phải có các nội dung sau:
– Tên Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành
– Thông tin về các bên tham gia hòa giải, đối thoại
– Nội dung thỏa thuận, thống nhất của các bên
– Quyền và nghĩa vụ các bên cần thực hiện
– Các nội dung khác theo quy định của pháp luật
Công văn 235/TANDTC-PC năm 2021 của Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành các biểu mẫu liên quan đến quyết định công nhận, không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành, bao gồm:
– Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án (Mẫu số 01-QĐHG)
– Quyết định không công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án (Mẫu số 02-QĐHG)
– Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các bên tham gia hòa giải tại Tòa án (Mẫu số 03-QĐHG)
– Quyết định không công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các bên tham gia hòa giải tại Tòa án (Mẫu số 04-QĐHG)
– Quyết định công nhận kết quả đối thoại thành tại Tòa án (Mẫu số 01-QĐĐT)
– Quyết định không công nhận kết quả đối thoại thành tại Tòa án (Mẫu số 02-QĐĐT)
6. Hiệu lực của quyết định công nhận kết quả hòa giải thành
Căn cứ theo Điều 35 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án 2020, hiệu lực của quyết định công nhận kết quả hòa giải thành như sau:
Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành có hiệu lực pháp luật và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính.
Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành được thi hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
Quyết định công nhận kết quả đối thoại thành được thi hành theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính.
Như vậy, quyết định công nhận kết quả hòa giải thành có hiệu lực pháp luật ngay và không thể bị kháng cáo, kháng nghị, đây là điểm khác biệt quan trọng so với các bản án, quyết định thông thường của Tòa án. Điều này nhằm đảm bảo tính ổn định và hiệu quả của việc hòa giải, đồng thời tôn trọng ý chí và quyền tự định đoạt của các bên.
Vướng mắc trong xử lý việc công nhận kết quả hòa giải thành
Trong quá trình thực hiện các quy định về công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án, có một số vướng mắc phát sinh trong thực tiễn như sau:
Vướng mắc về trách nhiệm chấm dứt hòa giải, đối thoại
Một là, trường hợp các bên không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án theo điểm b khoản 3 Điều 32 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020 thì Thẩm phán ra quyết định không công nhận kết quả, nhưng theo khoản 3 Điều 41 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020 thì Hòa giải viên có phải lập biên bản chấm dứt việc hòa giải, đối thoại đối với các trường hợp quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều 40 của Luật này nữa hay không? Và biên bản chấm dứt việc hòa giải, đối thoại có nội dung như thế nào, vì Thông tư số 02/2020/TT-TANDTC không quy định mẫu biên bản chấm dứt việc hòa giải, đối thoại.
Vướng mắc về mâu thuẫn giữa các quy định pháp luật
Hai là, tại điểm b khoản 3 Điều 32 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020 quy định trách nhiệm của Thẩm phán chuyển quyết định không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án, biên bản và tài liệu kèm theo cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc theo quy định của pháp luật về tố tụng. Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều 41 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án lại quy định trách nhiệm của Hòa giải viên lập biên bản chấm dứt việc hòa giải, đối thoại đối với trường hợp quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều 40 của Luật này.
Như vậy, giữa hai điều luật có sự mâu thuẫn, khi chưa phân biệt được trách nhiệm của Thẩm phán hay Hòa giải viên chuyển đơn và tài liệu kèm theo cho Tòa án đã nhận đơn và thông báo cho các bên biết.
Vướng mắc về phân công Thẩm phán
Vấn đề đặt ra là liệu Thẩm phán phụ trách hòa giải, đối thoại hoặc Thẩm phán khác do Chánh án Tòa án phân công tham gia phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại tại Tòa án có bắt buộc phải là Thẩm phán ban hành quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành hay không?
Nếu Thẩm phán tham gia phiên họp và Thẩm phán ban hành quyết định là hai chủ thể khác nhau thì có phải Thẩm phán đã ban hành quyết định không được tham gia giải quyết vụ việc đó theo trình tự tố tụng dân sự, tố tụng hành chính theo quy định tại khoản 2 Điều 41 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020 hay không?
Kết luận và kiến nghị
Hòa giải thành là một chế định quan trọng trong hệ thống tư pháp Việt Nam, góp phần đáng kể vào việc giải quyết các tranh chấp một cách hòa bình, tiết kiệm thời gian, công sức và chi phí cho cả người dân và Nhà nước. Việc công nhận kết quả hòa giải thành bởi Tòa án giúp đảm bảo tính hiệu lực và khả thi của các thỏa thuận đạt được qua hòa giải, tạo niềm tin cho các bên tham gia hòa giải.
Pháp luật Việt Nam hiện hành đã có những quy định cụ thể về điều kiện, trình tự, thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành. Theo đó, kết quả hòa giải thành có thể được công nhận khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện về năng lực hành vi dân sự của các bên, quyền và nghĩa vụ đối với nội dung thỏa thuận, tính tự nguyện và hợp pháp của thỏa thuận.
Tuy nhiên, vẫn còn một số vướng mắc trong việc áp dụng các quy định về công nhận kết quả hòa giải thành, đặc biệt là sự mâu thuẫn giữa các quy định về trách nhiệm của Thẩm phán và Hòa giải viên trong việc chấm dứt hòa giải, đối thoại và chuyển tài liệu cho Tòa án. Để khắc phục những vướng mắc này, cần có sự hướng dẫn cụ thể hơn từ các cơ quan có thẩm quyền, đặc biệt là Tòa án nhân dân tối cao.
Với tỷ lệ hòa giải thành trung bình cả nước trong 10 năm qua đạt 81,2%, có thể thấy hòa giải đã và đang phát huy vai trò quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp tại Việt Nam. Việc tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về hòa giải và công nhận kết quả hòa giải thành sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của chế định này trong thực tiễn, đồng thời khuyến khích người dân sử dụng phương thức giải quyết tranh chấp hòa bình này nhiều hơn nữa.