1. Khái niệm về Hội đồng trọng tài
Hội đồng trọng tài là hội đồng gồm một hoặc một số trọng tài viên được thành lập theo sự thỏa thuận của các bên tranh chấp phù hợp với quy định của pháp luật về trọng tài và quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài để giải quyết vụ việc. Đây là bộ phận chuyên trách giải quyết tranh chấp thương mại trong trung tâm trọng tài thương mại. Về số lượng trọng tài viên trong Hội đồng trọng tài do các bên thỏa thuận trong trường hợp không có thỏa thuận thì theo quy định tại khoản 2 Điều 39 Luật Trọng tài thương mại 2010 Hội đồng sẽ gồm 3 Trọng tài viên. Theo quy định pháp luật hiện nay có 2 loại Hội đồng trọng tài. Đó là Hội đồng trọng tài thành lập tại Trung tâm Trọng tài và Hội đồng Trọng tài vụ việc.
2. Thành lập Hội đồng trọng tài
2.1 Thành lập Hội đồng trọng tài tại Trung tâm trọng tài
Việc thành lập Hội đồng trọng tài tại Trung tâm trọng tài sẽ được thực hiện theo thỏa thuận của các bên hoặc thường tiến hành theo quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài được lựa chọn. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận khác hoặc quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài không quy định khác việc thành lập Hội đồng trọng tài thực hiện theo quy định pháp luật:
- Bị đơn phải lựa chọn Trọng tài viên cho mình và báo cho Trung tâm trọng tài biết hoặc đề nghị Chủ tịch Trung tâm trọng tài chỉ định Trọng tài viên trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện và yêu cầu chọn Trọng tài viên do Trung tâm trọng tài gửi đến
- Nếu bị đơn không chọn Trọng tài viên hoặc không đề nghị Chủ tịch Trung tâm trọng tài chỉ định Trọng tài viên, thì trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày hết thời hạn này, Chủ tịch Trung tâm trọng tài chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn.
- Trường hợp vụ tranh chấp có nhiều bị đơn thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện do Trung tâm trọng tài gửi đến, các bị đơn phải thống nhất chọn Trọng tài viên hoặc thống nhất yêu cầu chỉ định Trọng tài viên cho mình. Nếu các bị đơn không chọn được Trọng tài viên, thì trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày hết thời hạn này, Chủ tịch Trung tâm trọng tài chỉ định Trọng tài viên cho các bị đơn.
- Ngoài ra, trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày các Trọng tài viên được các bên chọn hoặc được Chủ tịch Trung tâm trọng tài chỉ định, các Trọng tài viên này bầu một Trọng tài viên khác làm Chủ tịch Hội đồng trọng tài. Hết thời hạn này mà việc bầu không thực hiện được, thì trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày hết thời hạn này, Chủ tịch Trung tâm trọng tài chỉ định Chủ tịch Hội đồng trọng tài.
Trường hợp các bên thỏa thuận vụ tranh chấp do một Trọng tài viên duy nhất giải quyết nhưng không chọn được Trọng tài viên trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày bị đơn nhận được đơn khởi kiện, thì theo yêu cầu của một hoặc các bên và trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, Chủ tịch Trung tâm trọng tài sẽ chỉ định Trọng tài viên duy nhất.
2.2 Thành lập Hội đồng trọng tài vụ việc
Nếu các bên trong vụ việc không có thỏa thuận thì việc thành lập Hội đồng trọng tài vụ việc theo pháp luật quy định. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày bị đơn nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn, bị đơn phải chọn Trọng tài viên và thông báo cho nguyên đơn biết Trọng tài viên mà mình chọn. Hết thời hạn mà bị đơn không thông báo cho nguyên đơn về Trọng tài viên mà mình chọn và các bên không có thỏa thuận khác về việc chỉ định Trọng tài viên thì nguyên đơn có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn
Trường hợp vụ tranh chấp có nhiều bị đơn, thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn và các tài liệu kèm theo, các bị đơn phải thống nhất chọn Trọng tài viên. Hết thời hạn này thì một hoặc các bên có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền chỉ định Trọng tài viên cho các bị đơn. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được các bên chọn hoặc được Tòa án chỉ định, các Trọng tài viên bầu một Trọng tài viên khác làm Chủ tịch Hội đồng trọng tài. Trong trường hợp không bầu được Chủ tịch Hội đồng trọng tài và các bên không có thỏa thuận khác thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền chỉ định. Trong trường hợp các bên thỏa thuận vụ tranh chấp do một Trọng tài viên duy nhất giải quyết nhưng không chọn được Trọng tài viên trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày bị đơn nhận được đơn khởi kiện, nếu các bên không có thỏa thuận yêu cầu một Trung tâm trọng tài chỉ định Trọng tài viên thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Tòa án có thẩm quyền chỉ định Trọng tài viên duy nhất.
3. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài
3.1 Thẩm quyền theo thỏa thuận các bên
Thỏa thuận của các bên là cơ sở để tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài. Trọng tài sẽ không mặc nhiên được áp dụng trong giải quyết tranh chấp nếu giữa các bên không có thoả thuận về việc sử dụng hình thức trọng tài hay có thể nói bản chất của trọng tài là hợp đồng – sẽ không có trọng tài nếu không có thoả thuận của các bên về việc sử dụng hình thức này để giải quyết tranh chấp phát sinh từ họ.
Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong giải quyết tranh chấp được xác định trong phạm vi thỏa thuận trọng tài chỉ có thẩm quyền trong phạm vi mà các bên thỏa thuận áp dụng Trọng tài, không được vượt quá giới hạn phạm vi các bên đã thỏa thuận. Trường hợp phát sinh tranh chấp về vượt quá thẩm quyền Trọng tài thì các bên có thể yêu cầu Tòa án xem xét và quyết định. Bên cạnh đó, quyền hạn của Hội đồng trọng tài trong quá trình tố tụng cũng được thiết lập thông qua việc các bên lựa chọn và thỏa thuận quy tắc tố tụng trọng tài.
3.2 Thẩm quyền theo quy định pháp luật
Thẩm quyền theo pháp luật là những thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật như Luật Trọng tài thương mại 2010, các nghị định, văn bản khác có liên quan trong trường hợp các bên không có quy định về thẩm quyền đối với Hội đồng Trọng tài hoặc thỏa thuận về thẩm quyền của các bên trái pháp luật, không có hiệu lực thì sẽ đương nhiên áp dụng thẩm quyền theo quy định pháp luật. Một số thẩm quyền của Hội đồng trọng tài theo quy định pháp luật như Thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài về việc triệu tập người làm chứng, Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài về việc thu thập chứng cứ, Thẩm quyền xác minh sự việc của Hội đồng trọng tài.
- Thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời: Khi một trong các bên có yêu cầu thì Hội đồng trọng tài có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để ngăn ngừa thiệt hại hoặc duy trì hiện trạng khi tranh chấp chưa được giải quyết xong nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của họ như yêu cầu tạm thời về việc trả tiền giữa các bên, kê biên tài sản, cấm chuyển dịch tài sản,…
- Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài về việc triệu tập người làm chứng: Hội đồng trọng tài có quyền yêu cầu người làm chứng tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp nếu xét thấy cần thiết, theo đề nghị của một hoặc các bên. Trường hợp người làm chứng đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do chính đáng và gây cản trở việc giải quyết, Hội đồng trọng tài có thể đề nghị Tòa án có thẩm quyền ra quyết định triệu tập.
- Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài về việc thu thập chứng cứ: Hội đồng trọng tài tự mình hoặc theo yêu cầu của một hoặc các bên, có quyền trưng cầu giám định, định giá tài sản trong vụ tranh chấp để làm căn cứ cho việc giải quyết tranh chấp. Hội đồng trọng tài tự mình hoặc theo yêu cầu của một hoặc các bên, có quyền tham vấn ý kiến của các chuyên gia. Theo yêu cầu của một hoặc các bên, Hội đồng trọng tài có quyền yêu cầu người làm chứng cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến việc giải quyết tranh chấp.
- Thẩm quyền xác minh sự việc của Hội đồng trọng tài: trong quá trình giải quyết tranh chấp, Hội đồng trọng tài có quyền gặp hoặc trao đổi với các bên với sự có mặt của bên kia bằng các hình thức thích hợp để làm sáng tỏ các vấn đề có liên quan đến vụ tranh chấp. Hội đồng trọng tài có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của một hoặc các bên tìm hiểu sự việc từ người thứ ba, với sự có mặt của các bên hoặc sau khi đã thông báo cho các bên biết.
3.3 Thẩm quyền tự quyết của Hội đồng trọng tài
Một trong những loại thẩm quyền đặc thù của Hội đồng trọng tài là thẩm quyền tự xem xét về năng lực pháp lý của mình trong những vụ việc cụ thể. Về thực chất, trọng tài mang bản chất một thiết chế tài phán và điều đó đòi hỏi các Trọng tài viên phải thực hiện chức năng của mình một cách độc lập, vô tư. Trọng tài viên không phải là luật sư do các bên chỉ định cho mình, mặc dù về thực tế cũng do các bên chỉ định. Họ không phải là người của các bên, do đó phải tự xét đoán tự do, độc lập, vô tư để tránh mọi sự nghi ngại có thể có.

4. Vai trò của Hội đồng trọng tài trong quá trình giải quyết tranh chấp
Hội đồng trọng tài trong quá trình giải quyết tranh chấp đóng vai trò là trung tâm của cơ chế trọng tài thương mại, thể hiện qua một loạt chức năng quan trọng nhằm đảm bảo quá trình giải quyết tranh chấp diễn ra công bằng, hiệu quả và đúng pháp luật. Các vai trò của Hội đồng Trọng tài bao gồm:
- Trung lập và công bằng trong xét xử
Hội đồng trọng tài đóng vai trò như người phân xử đứng trung lập được các bên lựa chọn hoặc chấp thuận. Trong suốt quá trình giải quyết tranh chấp, Hội đồng trọng tài phải đảm bảo: Không thiên vị bất kỳ bên nào, Xét xử dựa trên sự thật khách quan và các quy định pháp luật hoặc quy tắc mà các bên đã thỏa thuận.
- Tổ chức và điều hành quá trình tố tụng
Hội đồng trọng tài có trách nhiệm: Tổ chức các phiên họp, triệu tập các bên, người làm chứng, giám định viên nếu thấy cần thiết. Theo dõi quá trình giải quyết tranh chấp từ nhận đơn kiện đến phiên xử và ra phán quyết. Hướng dẫn các bên tuân thủ thủ tục tố tụng dựa trên quy tắc trọng tài mà các bên đã lựa chọn hoặc theo quy định pháp luật.
- Xác minh, thu thập và đánh giá chứng cứ
Hội đồng trọng tài có quyền: yêu cầu các bên cung cấp tài liệu, chứng cứ; tự mình tiến hành xác minh, trưng cầu giám định hoặc yêu cầu Tòa án hỗ trợ trong việc thu thập chứng cứ; đánh giá toàn diện chứng cứ để làm rõ bản chất của tranh chấp, từ đó đưa ra phán quyết phù hợp.
- Đưa ra phán quyết trọng tài
Đây là vai trò quan trọng nhất của Hội đồng trọng tài là kết quả giải quyết tranh chấp của các bên. Phán quyết của Hội đồng trọng tài có giá trị chung thẩm – không bị kháng cáo, trừ trường hợp bị yêu cầu hủy theo luật định, có giá trị tương đương như một bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án, được thi hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
5. Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến Hội đồng trọng tài
- Hạn chế trong việc áp dụng và thực thi các biện pháp khẩn cấp tạm thời
Hội đồng trọng tài có quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, tuy nhiên không có cơ chế cưỡng chế thi hành như Tòa án. Trong nhiều trường hợp, các bên không tự nguyện thực hiện khiến quyền lợi của bên yêu cầu bị ảnh hưởng, buộc phải nhờ đến Tòa án hỗ trợ thi hành, gây tốn thời gian và chi phí.
- Khó khăn trong việc triệu tập người làm chứng hoặc thu thập chứng cứ
Hội đồng trọng tài có quyền triệu tập người làm chứng hoặc yêu cầu thu thập chứng cứ, nhưng lại không có thẩm quyền cưỡng chế như Tòa án. Tuy nhiên, khi người làm chứng không hợp tác hoặc không có mặt đúng hẹn, Hội đồng trọng tài phải gửi đề nghị đến Tòa án có thẩm quyền để hỗ trợ, kéo dài tiến trình giải quyết.
- Tính chung thẩm của phán quyết trọng tài nhưng vẫn bị yêu cầu hủy
Về mặt giá trị pháp lý thì phán quyết của Hội đồng trọng tài có giá trị chung thẩm và không bị kháng cáo, tuy nhiên vẫn có thể bị Tòa án tuyên hủy nếu rơi vào các trường hợp theo Điều 68 Luật Trọng tài thương mại 2010. Nhiều phán quyết trọng tài bị yêu cầu hủy vì lý do hình thức (vi phạm thủ tục tố tụng, vi phạm điều cấm, vượt quá thẩm quyền…), gây tranh cãi về tính ổn định và hiệu lực của cơ chế trọng tài.
- Thiếu tính ràng buộc trong việc thi hành phán quyết trọng tài
Phán quyết trọng tài được thi hành theo Luật Thi hành án dân sự. Trong thực tế việc thi hành vẫn phụ thuộc vào ý chí tự nguyện của bên thua kiện; nếu không tự nguyện, phải chuyển sang giai đoạn cưỡng chế qua Tòa án và cơ quan thi hành án – khiến ưu điểm “nhanh gọn” của trọng tài bị hạn chế.
Kết luận: Hội đồng trọng tài vừa là người điều hành tố tụng, vừa là chủ thể ra quyết định giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài, hoạt động dựa trên sự lựa chọn, tin tưởng và thỏa thuận của các bên. Với quyền hạn được trao, Hội đồng trọng tài đóng vai trò trung tâm, đảm bảo cho quá trình giải quyết tranh chấp được tiến hành hiệu quả, minh bạch và phù hợp với nguyên tắc công bằng.