Bài viết trình bày các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu và không thực hiện được theo quy định pháp luật Việt Nam. Thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi vi phạm pháp luật về chủ thể, nội dung, hình thức hoặc điều cấm của luật. Trong khi đó, thỏa thuận không thực hiện được do lý do khách quan như trung tâm trọng tài chấm dứt hoạt động, trọng tài viên không thể tham gia mà các bên không thống nhất được phương án thay thế. Qua đó, so sánh sự khác biệt giữa hai trường hợp thỏa thuận trên.
1. Các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu
Căn cứ tại Điều 18 Luật Trọng tài thương mại, thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu khi:
+ Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài (các tranh chấp thuộc thẩm quyền Trọng tài bao gồm: Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại, Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại, Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài).
+ Người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
+ Người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự
+ Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định (theo quy định tại Điều 16 Luật Trọng tài thương mại, thỏa thuận trọng tài phải được xác lập thành văn bản).
+ Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài đó là vô hiệu.
Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.
2. Các trường hợp thỏa thuận trọng tài không thực hiện được
Quy định pháp luật hiện hành theo hướng liệt kê có giới hạn một số trường hợp thỏa thuận trọng tài được coi là không thực hiện được như sau:
+ Các bên đã thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài cụ thể nhưng Trung tâm trọng tài này đã chấm dứt hoạt động mà không có tổ chức trọng tài nào khác kế thừa và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn Trung tâm trọng tài khác để giải quyết tranh chấp.
+ Các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên trọng tài vụ việc nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà Trọng tài viên không thể tham gia giải quyết tranh chấp, hoặc Trung tâm trọng tài, Tòa án không thể tìm được Trọng tài viên như các bên thỏa thuận và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế.
+ Các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên trọng tài vụ việc, nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, Trọng tài viên từ chối việc được chỉ định hoặc Trung tâm trọng tài từ chối việc chỉ định Trọng tài viên và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế.
+ Các bên có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài nhưng lại thỏa thuận áp dụng Quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài khác với Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm trọng tài đã thỏa thuận và điều lệ của Trung tâm trọng tài do các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp không cho phép áp dụng Quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài khác và các bên không thỏa thuận được về việc lựa chọn Quy tắc tố tụng trọng tài thay thế.
+ Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng có điều khoản về thỏa thuận trọng tài được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hoá, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn quy định tại Điều 17 Luật Trọng tài thương mại nhưng khi phát sinh tranh chấp, người tiêu dùng không đồng ý lựa chọn Trọng tài giải quyết tranh chấp. Trường hợp này dựa trên nguyên tắc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trước những điều khoản trọng tài mẫu được quy định theo hợp đồng soạn sẵn của bên cung ứng dịch vụ mà có thể có lợi hơn cho bên cung ứng đó.

3. Phân biệt trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu và thỏa thuận trọng tài không thực hiện được
Về khái niệm:
Thỏa thuận trọng tài vô hiệu là thỏa thuận trọng tài không có hiệu lực pháp lý. Thỏa thuận trọng tài vô hiệu là thỏa thuận trọng tài thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 18 Luật Trọng tài thương mại 2010 (Điều 18 Luật Trọng tài thương mại 2010)
Thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được là thỏa thuận thuộc một trong các trường hợp được quy định tại Điều 4 NQ 01(Điều 4 NQ 01/2014/NQ-HĐTP)
Về nguyên nhân:
Thỏa thuận trọng tài vô hiệu do vi phạm pháp luật
Thỏa thuận trọng tài không thực hiện được vì lý do khách quan, kỹ thuật, tổ chức
Về điều kiện:
Thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi:
- Vi phạm về điều kiện hình thức
- Do tranh chấp không được giải quyết bằng trọng tài
- Do chủ thể xác lập thoả thuận trọng tài
- Thoả thuận trọng tài vi phạm điều cấm của luật
Thỏa thuận trọng tài không thực hiện được khi:
- Trung tâm trọng tài được thoả thuận lựa chọn chấm dứt hoạt động, không có tổ chức kế thừa, không có thỏa thuận chọn lại giữa các bên.
- Trọng tài viên được lựa chọn không thể tham gia giải quyết tranh chấp và không đồng thuận lựa chọn lại trọng tài viên
- Trọng tài viên vụ việc từ chối việc được chỉ định, không thỏa thuận lại được giữa các bên
- Không thống nhất việc lựa chọn quy tắc tố tụng trọng tài
Về hậu quả pháp lý:
Thỏa thuận mất hiệu lực hoàn toàn. Các bên không thể giải quyết tranh chấp bằng trọng tài; mở ra thẩm quyền giải quyết tranh chấp cho Toà án.
Thỏa thuận trọng tài không thực hiện được vẫn có hiệu lực về nguyên tắc, nhưng do không thể thực hiện nên cơ quan tài phán có thể tuyên không thể giải quyết bằng trọng tài. Các bên có thể chuyển sang tòa án.