1. Khái quát về thỏa thuận trọng tài
Thoả thuận trọng tài đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình tố tụng trọng tài. Tranh chấp thương mại chỉ được giải quyết theo phương thức trọng tài chỉ khi có thỏa thuận trọng tài giữa các Bên tranh chấp. Thỏa thuận trọng tài được lập bằng văn bản, thể hiện ý chí các Bên trong giải quyết tranh chấp. Thỏa thuận trọng tài có thể lập trước, đang hoặc sau khi xảy ra tranh chấp.
Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được.
Trường hợp một bên tham gia thoả thuận trọng tài là cá nhân chết hoặc mất năng lực hành vi, thoả thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với người thừa kế hoặc người đại diện theo pháp luật của người đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Trường hợp một bên tham gia thỏa thuận trọng tài là tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị phá sản, giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hoặc chuyển đổi hình thức tổ chức, thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với tổ chức tiếp nhận quyền và nghĩa vụ của tổ chức đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
Công ước New York 1958, tại Điều II.I xác định là:
“Văn bản thỏa thuận theo đó các bên buộc phải đưa ra trọng tài xem xét mọi tranh chấp hoặc một số tranh chấp đã hoặc có thể nảy sinh giữa các bên về mối quan hệ pháp lý xác định, có quan hệ hợp đồng hoặc không, liên quan tới các vấn đề có khả năng được giải quyết bằng trọng tài”.
Luật Mẫu UNCITRAL, Điều 7.1 quy định:
“Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận mà các bên đưa ra trọng tài hoặc các tranh chấp nhất định phát sinh hoặc có thể phát sinh giữa các bên về quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay không phải là quan hệ hợp đồng. Thỏa thuận trọng tài có thể dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng dưới hình thức thỏa thuận riêng”.
Luật Trọng tài Thương mại 2010, khoản 2 Điều 3:
“Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh”.
2. Đối với thỏa thuận trọng tài có yếu tố nước ngoài
Thỏa thuận trọng tài có yếu tố nước ngoài là các Bên đã trao thẩm quyền giải quyết tranh chấp cho cơ quan trọng tài cụ thể và tòa án nước sở tại không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đó trừ khi thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc bị hủy bỏ bởi chính các bên. Như vậy, thẩm quyền của trọng tài được xác lập trên cơ sở thỏa thuận trọng tài, là sự thống nhất ý chí của các bên về việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng bằng phương thức trọng tài.

Tóm lại, thỏa thuận trọng tài có thể được thể hiện bằng một điều khoản trọng tài trong hợp đồng xác lập quan hệ thương mại giữa các bên hoặc dưới hình thức một thỏa thuận riêng và được coi như gắn liền với hợp đồng chính hoặc chứng cứ xác định ý chí của các bên muốn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
3. Hiệu lực của thoả thuận trọng tài
Thỏa thuận trọng tài có hiệu lực độc lập với hợp đồng. Thỏa thuận trọng tài được xem như một hợp đồng trong hợp đồng. Điều khoản trọng tài xác định thủ tục tố tụng được áp dụng trong trường hợp có tranh chấp phát sinh giữa các bên, còn hợp đồng chính quy định quyền và nghĩa vụ của các bên. Hợp đồng chính vô hiệu không ảnh hưởng tới tiến trình tố tụng giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Luật Trọng tài Thương mại 2010, Điều 19 quy định:
“Thoả thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực của thoả thuận trọng tài”.
Luật Trọng tài Thương mại 2010, Điều 17 quy định:
“ Đối với các tranh chấp giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng, mặc dù điều khoản trọng tài đã được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hoá, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn thỏa thuận trọng tài thì người tiêu dùng vẫn được quyền lựa chọn Trọng tài hoặc Tòa án để giải quyết tranh chấp. Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ chỉ được quyền khởi kiện tại Trọng tài nếu được người tiêu dùng chấp thuận”.
4. Các nội dung liên quan trong thoả thuận trọng tài
Các bên được phép thỏa thuận ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài. Đây là nội dung thể hiện quyền được lắng nghe và quyền được trình bày của các bên tham gia. Ngôn ngữ được sử dụng phải phù hợp với tư duy và nhận thức của các bên về vấn đề được tranh luận. Khi các bên không có thỏa thuận thì ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài là tiếng Việt nếu Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp tại Việt Nam, nếu Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp ngoài Việt Nam, Hội đồng trọng tài sẽ quyết định ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài thích hợp. Các bên có thể yêu cầu trung tâm trọng tài cung cấp phiên dịch và phải trả chi phí dịch vụ.
Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Các bên có quyền lựa chọn pháp luật để giải quyết, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn. Nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng trọng tài quyết định áp dụng pháp luật mà Hội đồng trọng tài cho là phù hợp nhất.Đối với các tranh chấp giữa các bên Việt Nam, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật nội dung và pháp luật hình thức của Việt Nam để giải quyết tranh chấp. Việc các bên lựa chọn pháp luật nước ngoài sẽ không được Hội đồng trọng tài chấp nhận.
Các Bên lựa chọn bất kỳ trung tâm trọng tài nào hoặc tự thành lập Hội đồng trọng tài vụ việc (Ad Hoc) để giải quyết các tranh chấp của mình.
Đối với Hội đồng trọng tài vụ việc, các bên có quyền chỉ định trọng tài viên mà mình tin tưởng đồng thời các bên cũng có thể thỏa thuận cả thời gian giải quyết tranh chấp. Hội đồng trọng tài phải tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, chỉ khi không có thỏa thuận của các bên về thời gian tổ chức phiên họp thì Chủ tịch Hội đồng trọng tài mới có quyền quyết định. Thường thì vào thời điểm Hội đồng trọng tài cho rằng các thông tin cũng như căn cứ liên quan đến tranh chấp được thu thập đầy đủ đảm bảo cho một phán quyết đưa ra, phiên họp sẽ được mở. Việc mở phiên xét xử sẽ được tiến hành tại địa điểm do các bên lựa chọn.
Đối với Hội đồng trọng tài quy chế, thỏa thuận trọng tài chỉ quyết định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, Các Bên vẫn phải tuân thủ quy tắc tố tụng của Trung tâm Trọng tài cụ thể mà các Bên đã lựa chọn để giải quyết tranh chấp.
Thỏa thuận trọng tài thường xác định trình tự, thủ tục, thẩm quyền và trách nhiệm của các bên liên quan khi cần giải quyết những tranh chấp hay bất đồng phát sinh hay liên quan đến hợp đồng chính. Pháp luật các quốc gia thường quy định một số điều khoản cơ bản đối với thỏa thuận trọng tài như hình thức trọng tài, ngôn ngữ trọng tài, Luật áp dụng… Ngoài những điều khoản này thì các bên có thể xác lập thêm một số điều khoản khác tùy vào lợi ích của họ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp sau này.
Khác với quan hệ pháp luật mà ở đó luật tố tụng mang tính chất quyền lực nhà nước rất cao thì trong lĩnh vực trọng tài thương mại, trọng tài viên lại phụ thuộc vào sự lựa chọn của các bên, đây chính là nội dung thỏa thuận của các bên trong điều khoản trọng tài cũng chính là sự khác biệt giữa thỏa thuận trọng tài và đơn khởi kiện.
5. Toà án từ chối thụ lý trong trường hợp có thoả thuận trọng tài
Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được (Điều 6, Luật Trọng tài thương mại 2010).