Bài viết tập trung phân tích toàn diện về quyền, nghĩa vụ, các trường hợp phải thay đổi và trách nhiệm pháp lý của Trọng tài viên trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại tại Việt Nam. Qua đó, phân tích tính độc lập của Trọng tài viên trong quá trình giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại.
1. Quyền và nghĩa vụ trọng tài viên
Quyền lợi của Trọng tài viên
- Thứ nhất, Chấp nhận hoặc từ chối giải quyết tranh chấp.
- Thứ hai, Độc lập trong việc giải quyết tranh chấp.
- Thứ ba, Có quyền từ chối cung cấp các thông tin liên quan đến vụ tranh chấp.
- Thứ tư, Được hưởng thù lao.
Nghĩa vụ của Trọng tài viên
- Thứ 1, Giữ bí mật nội dung vụ tranh chấp mà mình giải quyết, trừ trường hợp phải cung cấp thông tin cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
- Thứ 2, Bảo đảm giải quyết tranh chấp vô tư, nhanh chóng, kịp thời.
- Thứ 3, Tuân thủ quy tắc đạo đức nghề nghiệp
2. Những trường hợp thay đổi trọng tài viên
Trọng tài viên phải từ chối giải quyết tranh chấp, các bên có quyền yêu cầu thay đổi Trọng tài viên giải quyết tranh chấp trong các trường hợp sau đây:
i) Trọng tài viên là người thân thích hoặc là người đại diện của một bên;
ii) Trọng tài viên có lợi ích liên quan trong vụ tranh chấp;
iii) Có căn cứ rõ ràng cho thấy Trọng tài viên không vô tư, khách quan;
iv) Đã là hòa giải viên, người đại diện, luật sư của bất cứ bên nào trước khi đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại trọng tài, trừ trường hợp được các bên chấp thuận bằng văn bản.
Trong trường hợp trọng tài viên tự nhận thấy hoặc các bên có yêu cầu chứng minh được là trọng tài viên có mối quan hệ làm ảnh hưởng tới sự độc lập, vô tự trong việc giải quyết tranh chấp thì trọng tài viên phải rút lui khỏi hội đồng trọng tài hoặc bị đề nghị thay thế bởi trọng tài viên khác phù hợp. Ngoài ra, trọng tài viên phải thông báo bằng văn bản cho Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài và các bên một cách chi tiết về những tình tiết có thể ảnh hưởng đến tính khách quan, vô tư của mình.
3. Về tính độc lập của Trọng tài viên:
Trọng tài viên là người được các bên lựa chọn hoặc được trung tâm trọng tài chỉ định để giải quyết tranh chấp theo phương thức trọng tài quy chế; hoặc là người được các bên lựa chọn hoặc Tòa án chỉ định để giải quyết tranh chấp theo phương thức trọng tài vụ việc. Chất lượng và hiệu quả của tố tụng trọng tài phụ thuộc vào chất lượng trọng tài viên. Trọng tài viên giỏi là nguồn lực quan trọng nhất để xây dựng, phát triển trung tâm trọng tài, giải quyết thân thiện và hiệu quả, đáp ứng tối đa quyền tự do thỏa thuận của các bên, minh bạch, bảo mật vụ tranh chấp, để các bên tranh chấp ngày càng tin tưởng vào ưu thế, ưu điểm của trọng tài, tin cậy lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Tính độc lập của Trọng tài viên bao gồm những nội hàm sau:
Tính độc lập trong việc lựa chọn hoặc chỉ định Trọng tài viên: Trọng tài là sản phẩm của quyền tự quyết của các bên. Các bên bằng ý chí của mình có thể chọn bất kỳ ai làm Trọng tài viên. Tuy nhiên, để đảm bảo chất lượng giải quyết các vụ tranh chấp bằng trọng tài, pháp luật về trọng tài của các nước đã có quy định hạn chế đối với quyền tự quyết của các bên, chỉ những người có điều kiện nhất định mới được làm Trọng tài viên. Khoản 1 Điều 20 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 của Việt Nam quy định những người có đủ các tiêu chuẩn sau đây có thể làm Trọng tài viên: a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của Bộ luật dân sự; b) Có trình độ đại học và đã qua thực tế công tác theo ngành đã học từ 5 năm trở lên; c) Trong trường hợp đặc biệt, chuyên gia có trình độ chuyên môn cao và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, tuy không đáp ứng được yêu cầu nêu tại điểm b khoản này, cũng có thể được chọn làm Trọng tài viên. Khoản 2 Điều này quy định những người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Khoản 1 nêu trên nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây không được làm Trọng tài viên: a) Người đang là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Chấp hành viên, công chức thuộc Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án; b) Người đang là bị can, bị cáo, người đang chấp hành án hình sự hoặc đã chấp hành xong bản án nhưng chưa được xóa án tích.

Chất lượng tổng thể của đội ngũ trọng tài viên của trung tâm trọng tài tượng trưng cho trình độ, đẳng cấp, uy tín, thương hiệu và chất lượng dịch vụ của trung tâm đó, do đó các trung tâm trọng tài đều quy định các tiêu chuẩn về Trọng tài viên thuộc trung tâm mình cao hơn tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 20 nêu trên. Hơn nữa, khi nhận được thông báo của trung tâm về việc được chọn hoặc được chỉ định làm Trọng tài viên, người được chọn hoặc chỉ định làm Trọng tài viên theo điều lệ hoạt động của trung tâm đó, phải ký văn bản tuyên bố cam kết thông báo kịp thời cho trung tâm về bất kỳ sự việc nào có thể gây nghi ngờ về sự vô tư, độc lập, khách quan của mình để trung tâm thông báo cho các bên.
Trọng tài viên độc lập trong việc giải quyết tranh chấp: Nội hàm này đã được minh thị trong Khoản 2 Điều 16 “Quyền, nghĩa vụ của Trọng tài viên” của Luật Trọng tài thương mại 2010. Thành phần Hội đồng trọng tài có thể bao gồm một hoặc nhiều Trọng tài viên theo thỏa thuận của các bên. Hội đồng Trọng tài quy chế thông thường được thành lập gồm 3 Trọng tài viên hoặc 01 Trọng tài viên duy nhất. Trọng tài viên độc lập với các bên, độc lập giữa các Trọng tài viên của Hội đồng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp trong toàn bộ quá trình, thủ tục tố tụng trọng tài, không đại diện cho lợi ích của một bên nào. Quy tắc trọng tài của VIAC và của nhiều trung tâm trọng tài khác tại Việt Nam hoặc của các tổ chức trọng tài nước ngoài đều có quy định tương tự: Trọng tài giải quyết vụ tranh chấp một cách độc lập, không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ lợi ích cá nhân hoặc áp lực bên ngoài.
Độc lập với các Trọng tài viên khác trong Hội đồng trọng tài trong toàn bộ quá trình và thủ tục tố tụng trọng tài, bao gồm độc lập với nhau trong việc xem xét và tự mình quyết định về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, xem xét sự tồn tại và hiệu của TTTT, nghiên cứu hồ sơ tài liệu vụ tranh chấp do các bên cung cấp thông qua trung tâm, nghe trình bày của các bên trong phiên họp giải quyết vụ tranh chấp, tuyên bố về phiên họp cuối cùng, đưa ra ý kiến độc lập của mình đối với quyết định trọng tài hoặc phán quyết trọng tài. Mục đích thực sự của tính độc lập của từng Trọng tài viên trong Hội đồng trọng tài là để vụ việc có thể được thảo luận đầy đủ, tránh sự thiên lệch ý kiến của Trọng tài viên có thể dẫn đến kết quả giải quyết vụ tranh chấp không công bằng. Sự độc lập lẫn nhau của các Trọng tài viên trong Hội đồng trọng tài là một yêu cầu tất yếu, nhằm bảo vệ quyền tự lựa chọn Trọng tài viên của các bên.
Độc lập với tổ chức trọng tài: Sự độc lập của các Trọng tài viên với tổ chức trọng tài bao gồm hai khía cạnh. Một là quyền lực thực chất để phân xử các tranh chấp nằm ở Trọng tài viên chứ không phải tổ chức trọng tài, hai là quyền phán quyết độc lập của Trọng tài viên không phải chịu bất kỳ sự can thiệp, tước đoạt hoặc hạn chế nào từ tổ chức trọng tài. Trong tổ chức trọng tài, để đảm bảo chất lượng của vụ việc và uy tín của tổ chức, trung tâm trọng tài có điều lệ hoạt động và quy tắc đạo đức mà các Trọng tài viên phải tuân thủ. Quyết định hoặc phán quyết trọng tài là của Hội đồng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp, không phải là của tổ chức trọng tài. Thuộc tính thiết yếu này đòi hỏi Trọng tài viên, Hội đồng trọng tài trong toàn bộ quá trình tố tụng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp độc lập với tổ chức trọng tài.
Cơ chế đảm bảo cho tính độc lập của Trọng tài viên: Thứ nhất, người được lựa chọn hoặc chỉ định làm Trọng tài viên, khi nhận là Trọng tài viên giải quyết vụ tranh chấp phải tuyên bố về tính vô tư, khách quan, không có bất kỳ lợi ích liên quan vụ tranh chấp. Thứ hai, các tổ chức trọng tài sử dụng công nghệ thông tin để tiết lộ thông tin cá nhân của các Trọng tài viên một cách thích hợp, để các bên lựa chọn Trọng tài viên một cách chính xác, đồng thời là kênh để các trọng tài viên thực hiện nghĩa vụ tiết lộ tốt hơn và toàn diện hơn. Công bố danh sách Trọng tài viên của các tổ chức trọng tài hoạt động tại Việt Nam là một trong những nội dung quản lý Nhà nước về trọng tài. Thứ ba, quyền thay đổi Trọng tài viên của các bên.
4. Trọng tài viên không khách quan, bị xử lý như thế nào?
Trọng tài viên, với vai trò là người phân xử độc lập và là bên thứ ba đứng ra giải quyết tranh chấp giữa các bên, phải bảo đảm sự khách quan và vô tư tuyệt đối trong suốt quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Đây là một yêu cầu mang tính nguyên tắc, nhằm duy trì tính chính danh, độ tin cậy và hiệu lực pháp lý của cơ chế trọng tài. Trong trường hợp trọng tài viên vi phạm nguyên tắc khách quan – ví dụ như thể hiện sự thiên vị, thiếu trung lập trong xử lý tranh chấp – hành vi đó không chỉ làm suy giảm niềm tin vào cơ chế trọng tài mà còn bị coi là hành vi vi phạm pháp luật. Theo quy định tại Điều 27 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP của Chính phủ – quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, và phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã – trọng tài viên có hành vi thiếu khách quan trong quá trình thực hiện nhiệm vụ có thể bị xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật. Quy định này góp phần răn đe và bảo đảm tính minh bạch, công bằng trong hoạt động trọng tài thương mại tại Việt Nam.
– Thứ nhất, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với các chủ thể thực hiện một trong những hành vi vi phạm quy định của pháp luật sau đây:
- Giải quyết tranh chấp trong trường hợp những đối tượng được xác định là trọng tài viên chính là những người thân thích hoặc được xác định là người đại diện cho một bên trong vụ tranh chấp đó;
- Tiến hành hoạt động giải quyết tranh chấp trong trường hợp trọng tài viên được xác định là những đối tượng có lợi ích liên quan trực tiếp đến vụ tranh chấp đó;
- Giải quyết tranh chấp trong trường hợp các đối tượng được xác định là trọng tài viên đã từng tiến hành hoạt động hòa giải hoặc được xác định là người đại diện hoặc luật sư của một trong những bên tranh chấp trước khi đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại trọng tài, trừ những trường hợp được các bên chấp nhận bằng văn bản;
- Giải quyết tranh chấp khi có những căn cứ rõ ràng cho thấy trọng tài viên không khách quan và vô tư trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
– Thứ hai, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với các chủ thể thực hiện một trong những hành vi vi phạm quy định của pháp luật sau đây:
- Có hành vi tiết lộ bí mật nội dung của vụ tranh chấp trái quy định của pháp luật mà mình đang giải quyết, trừ những trường hợp cần phải tiến hành hoạt động cung cấp thông tin cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
- Hoạt động trọng tài thương mại tuy nhiên không đầy đủ tiêu chuẩn và điều kiện để có thể làm trọng tài viên.
– Thứ ba, biện pháp khắc phục hậu quả có thể áp dụng trong trường hợp trên đó là buộc phải nộp lại số lợi bất hợp pháp thu được do hành vi vi phạm quy định pháp luật của mình. Vì vậy có thể nói, khi có căn cứ rõ ràng cho thấy các trọng tài viên tiến hành hoạt động giải quyết tranh chấp không vô tư và không khách quan theo phân tích nêu trên thì sẽ bị xử phạt từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Ngoài ra những trọng tài viên đó còn có thể bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả đó là buộc phải nộp lại số loại bất hợp pháp do quá trình thực hiện hành vi vi phạm pháp luật của mình mà có.