Bài viết cung cấp cái nhìn toàn diện về trọng tài quốc tế – một phương thức giải quyết tranh chấp có yếu tố nước ngoài trong lĩnh vực thương mại và tư pháp quốc tế. Nội dung bài đề cập đến khái niệm, đặc điểm, thẩm quyền và cơ chế tổ chức của trọng tài quốc tế. Ngoài ra, bài viết cũng phân tích các quy định pháp lý liên quan, trong đó có Quy tắc Trọng tài UNCITRAL của Liên Hợp Quốc – một văn bản quan trọng điều chỉnh trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trong môi trường thương mại toàn cầu.
1. Khái niệm Trọng tài quốc tế
Trọng tài quốc tế là cơ quan hoặc phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật thuộc lĩnh vực điều chỉnh của tư pháp quốc tế mà pháp luật cho phép được giải quyết bằng trọng tài.
Quy định về trọng tài quốc tế: Trọng tài quốc tế chỉ có chức năng giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế quốc tế, các tranh chấp trong các lĩnh vực khác như tranh chấp đường. biên giới trên đất liền, trên biển… không thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài quốc tế mà được giải quyết thông qua thương lượng giữa các quốc gia hoặc thông qua khâu trung gian của tổ chức quốc tế hay của một nước thứ ba.Cơ cấu tổ chức của trung tâm trọng tài quốc tế tại Việt Nam có chủ tịch, phó chủ tịch, trọng tài viên và có thể có trọng tài viên là người nước ngoài. Nhiệm kỳ của trọng tài viên là 4 năm. Việc lựa chọn trọng tài viên và hoạt động của trung tâm trọng tài dựa theo nguyên tắc chung được thể hiện trong Quy tắc trọng tài của phòng thương mại quốc tế (ICC). Khi giải quyết tranh chấp, trọng tài viên được quyền độc lập và không chịu ảnh hưởng của bất kỳ sự can thiệp nào. Kết quả giải quyết tranh chấp có thể là một thoả thuận hoà giải hoặc một phán quyết của trọng tài. Phán quyết của trọng tài có hiệu lực bắt buộc đối với các bên tranh chấp và không thể bị kháng cáo trước tòa án hay một cơ quan trọng tài khác.
Ở Việt Nam, ngoài chức năng của trọng tài quốc tế như đã nói trên, trung tâm trọng tài quốc tế được thành lập bên cạnh Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam, được mở rộng thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quan hệ kinh doanh trong nước nếu các bên tranh chấp thoả thuận với nhau việc chọn trung tâm trọng tài quốc tế để giải quyết vụ việc. Cơ cấu tổ chức của trung tâm trọng tài quốc tế tại Việt Nam có chủ tịch, phó chủ tịch, trọng tài viên và có thể có trọng tài viên là người nước ngoài. Nhiệm kỳ của trọng tài viên là 4 năm. Việc lựa chọn trọng tài viên và hoạt động của trung tâm trọng tài dựa theo nguyên tắc chung được thể hiện trong Quy tắc trọng tài của phòng thương mại quốc tế (ICC). Khi giải quyết tranh chấp, trọng tài viên được quyền độc lập và không chịu ảnh hưởng của bất kì sự can thiệp nào. Kết quả giải quyết tranh chấp có thể là một thoả thuận hoà giải hoặc một phán quyết của trọng tài. Phán quyết của trọng tài có hiệu lực bắt buộc đối với các bên tranh chấp và không thể bị kháng cáo trước tòa án hay một cơ quan trọng tài khác.
2. Đặc điểm của trọng tài quốc tế
Mặc dù còn có những nhìn nhận khác nhau về trọng tài theo quan điểm riêng, nhưng rõ ràng, có thể chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của trọng tài như sau:
Thứ nhất, quá trình trọng tài diễn ra trên cơ sở thoả thuận trọng tài được thiết lập bởi các bên tranh chấp.
Thứ hai, thủ tục trọng tài được xác định bởi các bên và thường là một thủ tục xét xử kín được điều khiển bởi hội đồng trọng tài gồm một hoặc một số lẻ các trọng tài viên.
Thứ ba, phán quyết của trọng tài về vụ tranh chấp là chung thẩm, buộc các bên phải thực hiện.
Trọng tài quốc tế luôn chứa đựng những đặc điểm chung của một trọng tài, nhưng một trọng tài chỉ được coi là trọng tài quốc tế nếu nó chứa đựng đầy đủ tính “quốc tế”, về mặt lý luận cũng như thực tiễn, việc xác định một trọng tài là quốc tế hay nội địa thường rất có ý nghĩa bởi vì hầu hết các nước đều xây dựng các quy chế pháp lý khác nhau cho mỗi loại trọng tài này. Các trọng tài nội địa (trọng tài giải quyết các tranh chấp thuần túy nội địa, không có yếu tố nước ngoài) thường bắt buộc phải tuân theo những quy định về trọng tài của quốc gia đó như: tố tụng trọng tài, luật điều chỉnh nội dung tranh chấp, ngôn ngữ trọng tài.

3. Thẩm quyền của trọng tài quốc tế
Thẩm quyền của trọng tài quốc tế bắt nguồn từ thoả thuận của các bên, không có thoả thuận trọng tài sẽ không có trọng tài. Đó là nguyên tắc “hòn đá tảng” của trọng tài nói chung, trọng tài quốc tế nói riêng. Tuy nhiên, cũng có ngoại lệ của nguyên tắc này. Một số điều ước quốc tế quy định bắt buộc tranh chấp giữa các bên có liên quan đều phải giải quyết bằng trọng tài dù có thoả thuận hay không.
Thẩm quyền của trọng tài còn bị ảnh hưởng bởi phạm vi các tranh chấp mà nó được phép giải quyết (hay còn gọi là khả năng trọng tài). Trọng tài có thể bị giới hạn phạm vi xét xử trong những quan hệ hợp đồng, cũng có thể không bị giới hạn dù có hợp đồng hay không. Chẳng hạn các quy tắc trọng tài UNCITRAL đã giới hạn thẩm quyền của trọng tài trong phạm vi các quan hệ hợp đồng, việc sử dụng bộ quy tắc này đối với những tranh chấp ngoài hợp đồng là không được phép. Trong khi đó các quy tắc trọng tài LCIA (Toà án trọng tài quốc tế London) và ICC (Phòng Thương mại quốc tế) cho phép trọng tài quốc tế giải quyết các tranh chấp cho dù có hợp đồng hay không.
“Khả năng trọng tài” còn liên quan tới việc xác định thẩm quyền của trọng tài đối với các tranh chấp phát sinh từ những lĩnh vực nào? Thực tế là, ngày nay, hầu hết pháp luật các nước đều mở rộng thẩm quyền của trọng tài, theo đó cho phép trọng tài có khả năng giải quyết không chỉ tranh chấp thương mại mà còn các tranh chấp lao động, dân sự khác. Điều 1 Luật trọng tài Brazil 1996 quy định: “Mọi người có khả năng ký kết hợp đồng đều có thể đưa ra trọng tài để giải quyết các tranh chấp liên quan tới các quyền về tài sản mà họ có quyền quyết định”.
Các quy định tương tự cũng được tìm thấy tại Điều 2 Luật trọng tài Trung Quốc 1994, khoản 1 Điều 1030 Luật trọng tài Đức 1998, Điều 1 Luật trọng tài Thụy Điển 1999 …. Tuy nhiên, sự mở rộng thẩm quyền trọng tài cũng có giới hạn của nó, khi nhà nước cần can thiệp trực tiếp vào các tranh chấp “không chỉ liên quan tới quyền lợi cá nhân đương sự mà còn liên quan tới quyền lợi của bên thứ ba hoặc lợi ích công cộng”. Chẳng hạn, các tranh chấp phát sinh từ quan hệ hôn nhân, thừa kế, một số tranh chấp về sở hữu trí tuệ, cạnh tranh không lành mạnh trong kinh doanh, phá sản, tranh chấp từ quan hệ hành chính … phải do tòa án hay cơ quan nhà nước có
Tóm lại, có thể khẳng định rằng, trọng tài quốc tế chỉ có thẩm quyền hợp pháp để giải quyết tranh chấp nếu có một thỏa thuận trọng tài hợp pháp được làm bởi các bên tranh chấp (trừ trường hợp ngoại lệ). Thoả thuận trọng tài phải là biểu hiện của sự thống nhất ý chí giữa các bên tranh chấp chứ không phải là sự biểu hiện của ý chí đơn phương.
4. Bản quy tắc trọng tài của Ủy ban Luật thương mại quốc tế Liên hợp quốc
Bản quy tắc về trọng tài quốc tế quy định các nguyên tắc cơ bản trong quá trình xét xử các tranh chấp trong hoạt động thương mại quốc tế.
Bản quy tắc này được Uỷ ban luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL) thông qua ngày 28.4.1976 và được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 15.12.1976.
Bản quy tắc gồm 4 chương với 41 điều.
Chương 1 – Những quy định chung, đề cập các vấn đề: phạm vi ép dụng của bản quy tắc, thông báo và cách tính thời gian nhận các giấy tờ liên quan tới hoạt động của trọng tài, thông báo trọng tài, việc đại diện và trợ giúp – cho các bên tranh chấp.
Chương 2 – Xác lập toà án trọng tài, quy định các vấn đề liên quan đến trọng tài viên: số lượng trọng tài viên, việc chỉ định trọng tài viên, bãi miễn trọng tài viên, thay thế trọng tài viên.
Chương 3 – Tố tụng trọng tài, nội dung đề cập đến các vấn đề về tố tụng trọng tài như: địa điểm trọng tài, ngôn ngữ sử dụng trong quá trình tố tụng trọng tài, nội dung đơn yêu cầu; nội dung đơn biện minh, việc sửa đổi đơn yêu cầu và đơn biện mình, các vấn đề liên quan tới việc phản đối thẩm quyền xét xử của trọng tài, các vấn đề về chứng cứ, các biện pháp ngăn ngừa kịp thời, vấn đề chuyên gia, việc vắng mặt của các bên…
Chương 4 – Quyết định của trọng tài, quy định các vấn đề như: áp dụng luật trong việc giải quyết tranh chấp, các cơ sở pháp lí để kết thúc quá trình tố tụng, hình thức và hiệu lực của quyết định trọng tài, giải thích quyết định của trọng tài, chi phí trọng tài và tiền đặt trước cho việc xét xử trọng tài…